Niêm yết bản kê khai tà i sản quan chức tại cơ quan
Tin tức - Ngày đăng : 09:10, 18/08/2011
Phó tổng Thanh tra Chính phủ Trần Đức Lượng. Ảnh: Tiến Dũng. |
- Theo đánh giá của ông những vấn đử gì chúng ta có thể minh bạch để chống tham nhũng nhưng vẫn chưa thực hiện được?
- Chủ trương phòng chống tham nhũng đến năm 2020 đã đặt ra việc giảm thiểu tối đa những quy định bí mật nhà nước, bí mật công nghệ, bí mật nghử nghiệp. Trong thực tế, cũng có một số cơ quan, doanh nghiệp, tập đoà n kinh tế lợi dụng cái gọi là bí mật để không cung cấp thông tin vử hoạt động. Nhưng theo Luật Phòng chống tham nhũng, các cơ quan, đơn vị phải công khai vử mặt tổ chức, hoạt động. Ví dụ, Thanh tra Chính phủ phải công khai các kết quả thanh tra, khiếu nại, giải quyết tố cáo hoặc các hoạt động khác như xây dựng thể chế...
Vậy nên cần phải sửa đổi hệ thống văn bản vử bí mật nhà nước. Cái nà o thực sự là m phương hại đến an ninh quốc gia (nếu thông tin đó bị lộ), ảnh hưởng đến thuần phong mử¹ tục, có tác dụng ngược tới xã hội thì không công khai. Kinh nghiệm thế giới cho thấy cà ng công khai, cà ng minh bạch thì tham nhũng sẽ giảm.
- à”ng đánh giá thế nà o vử Nghị định 68 sửa đổi, bổ sung một số điửu của Nghị định số 37 vử minh bạch tà i sản, thu nhập, trong đó bổ sung quy định công khai Bản kê khai tà i sản thu nhập?
- Nghị định 68 tiến bộ một bước so với Nghị định 37 khi quy định công khai bản kê khai tà i sản. Nhưng ở đây phải khẳng định là công khai có nguyên tắc bởi trong Luật Phòng chống tham nhũng có nói bản kê khai tà i sản được lưu cùng hồ sơ cán bộ. Trong khi hồ sơ cán bộ lại thuộc vử bí mật nhà nước. Chỗ nà y phải sửa để phù hợp.
Chính phủ cũng thể chế hóa quy định những người có nghĩa vụ kê khai tà i sản phải công khai thông tin tại đơn vị, cơ quan mà mình công tác. Còn hình thức công khai như thế nà o thì do thủ trưởng đơn vị đó quyết định: thông báo trong cuộc họp hay niêm yết tại trụ sở cơ quan. Ví dụ, tôi công tác ở Thanh tra Chính phủ, nếu năm 2011 có biến động vử tà i sản, tôi phải kê khai bổ sung và công khai bản kê ấy.
- Khi cán bộ đã công khai bản kê khai tà i sản tại cơ quan thì báo chí, người dân có được tiếp cận với thông tin nà y?
- Bản kê khai nà y chưa được công khai rộng rãi nhưng chúng ta đang từng bước tiến tới việc đó. Các cụ đã nói: "Một người thì kín, chín người thì hở". Khi đã công khai trong đơn vị, như cơ quan tôi có khoảng 200 người từ chuyên viên chính trở lên biết được tà i sản của tôi thì có nghĩa là toà n xã hội biết vì không ai cấm được việc ông chuyên viên nói là ông nà y có cái nhà , ông kia có cái xe... Việc đó tự hiểu là sẽ lan tửa, và đây là điểm Thanh tra Chính phủ đử xuất sửa đổi Luật Phòng chống tham nhũng. Nếu Quốc hội đồng ý, lúc đó mọi người đửu có thể tiếp cận bản kê khai tà i sản.
Phó tổng Thanh tra Chính phủ Trần Đức Lượng: "Người có chức vụ quyửn hạn, tốt nhất là trung thực trong việc kê khai tà i sản". Ảnh: Tiến Dũng. |
- Theo ông tính xác thực của các bản kê khai tà i sản đang ở mức nà o?
- Nghị định 37 chưa xác định nguyên tắc vử kê khai tà i sản nên trong Nghị định 68 đã xác định nguyên tắc: tự kê khai và tự chịu trách nhiệm. 50 triệu đồng tiửn mặt thì dễ đếm nhưng bức tranh bảo là 50 triệu hay 30 triệu đồng thì chắc sẽ cãi nhau. Vậy thì ai phải xác định đồ vật đó có giá trị 50 triệu đồng trở lên? Chính là người sở hữu nó. Trách nhiệm của người kê khai là phải giải trình với cơ quan quản lý. Nghĩa là kê khai thế nà o để sau nà y cơ quan quản lý cán bộ dò lại thì phải giải trình được.
- Nghị định vử kê khai tà i sản có tính tới việc các quan chức chia nhử tà i sản ra để đứng tên người khác trong gia đình hoặc gửi ở nước ngoà i để tránh phải kê khai?
- Khi nghiên cứu, chúng tôi đã tính đến tình huống nà y. Ví dụ, ở nước ta quan chức thấy có rất nhiửu tà i sản nhưng bản kê khai thì rất ít vì tà i sản đứng tên con ông ấy, mà con lại chưa thà nh niên. Trong suy nghĩ của chúng tôi, tới đây phải có đử xuất như thế nà o để bịt được lỗ hổng nà y.
Còn vử tà i sản ở nước ngoà i, cứ có là phải kê khai chứ không giới hạn ở mức 50 triệu đồng. Chúng ta là thà nh viên của công ước Liên hợp quốc nên không ngại việc không lấy được thông tin ở nước ngoà i. Tôi cho là những người có nghĩa vụ phải kê khai, nếu có tiửn, tà i sản, đồ vật ở nước ngoà i thì khôn ngoan nhất là phải kê khai bởi việc phát hiện rất dễ.
- Thưa ông, vừa qua có bao nhiêu trường hợp cán bộ kê khai gian dối bị phát hiện?
- Tôi nhớ là có trường hợp vi phạm nhưng chưa nhiửu. Trước đây có một số người rất ngại kê khai tà i sản và rất sợ công khai nhưng người quản lý không có chế tà i xử lý. Tôi từng đến một tỉnh, lãnh đạo cho biết ở huyện có một người nhất quyết không nộp bản kê khai tà i sản nhưng bảo xử lý ông ấy theo điửu khoản nà o thì lại không có. Lần nà y, trong Nghị định 68 đã có chế tà i xử lý, hình thức kỷ luật cao nhất là mất chức.
Việc công khai bản kê khai tà i sản chính là một phương thức kiểm soát sự trung thực. Người có chức vụ quyửn hạn, giải pháp tốt nhất là trung thực trong việc kê khai tà i sản.