Giải mã việc dùng mâm đồng là m 'chiến thư' của Đào Duy Từ

Danh thắng & Di tích Hà Nội - Ngày đăng : 16:05, 30/08/2011

(NHN) Nhắc đến Аà o Duy Từ người ta nghĩ ngay đến lũy Thà y. Tuy vậy, cuộc đời và  sự nghiệp của vị danh nhân nà y còn nhiửu giai thoại thú vị khác mà  ít người biết tới.

Chiến thư trong mâm đồng hai đáy

Năm 1627, chúa Trịnh muốn bắt họ Nguyễn ở Аà ng Trong thần phục, bèn cử­ sứ giả mang sắc vua Lê và o phong cho Nguyễn Phúc Nguyên và  đòi lễ vật cống nạp. Vử phần Аà ng Trong, sau mấy chục năm gây dựng cơ nghiệp, thực lực của họ Nguyễn đã mạnh lên nhiửu. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên theo chí hướng của cha là  Nguyễn Hoà ng từ lâu nuôi ý đồ dứt bử sự lệ thuộc và  triửu đình Lê “ Trịnh. Trước việc vua Lê sai sứ giả và o phong, Chúa Nguyễn không chịu nhưng cũng chưa biết xử­ trí ra sao. Аà o Duy Từ bèn khuyên chúa bước đầu cứ nhận sắc rồi sau sẽ tìm kế đối phó.

3 năm sau, khi đã chuẩn bị đầy đủ mọi điửu kiện thuận lợi, Аà o Duy Từ bà n với chúa Nguyễn, sai thợ là m một chiếc mâm đồng có hai đáy, bử sắc của vua Lê kèm một tử thiếp có 4 câu chữ Hán và o giữa rồi hà n kín lại. Trên mâm bà y nhiửu lễ vật hậu hĩnh rồi cử­ sứ giả đem ra Thăng Long để tạ ơn vua Lê, chúa Trịnh.

Giải mã việc dùng mâm đồng là m 'chiến thư' của Đào Duy Từ

Tranh vẽ cảnh Аà o Duy Từ đang bà n việc quân cơ với tướng sĩ.

Cẩn thận hơn nữa, Аà o Duy Từ lại nghĩ sẵn các câu hửi và  câu trả lời để đối đáp với triửu đình Аà ng Ngoà i để sứ giả biết cách đối phó. Sau khi dâng xong lễ vật, đang đêm đoà n sứ giả lẻn ra khửi Thăng Long và  theo đường biển chạy vử Аà ng Trong an toà n.

Thấy chiếc mâm đồng có hai đáy, chúa Trịnh ngử vực bèn cho người mở ra thì thấy có tử sắc phong và  4 câu chữ Hán: Mâu phi vô dịch/Mịch phi kiến tích/ài lạc tâm trường/Lực lai dương địch

Lúc bấy giử cả triửu đình Аà ng Ngoà i không ai hiểu được thâm ý bên trong là  gì. Sau trạng Bùng Phùng Khắc Khoan được mời đến hửi thì mới vỡ lẽ đây là  một phép chiết tự ẩn ngữ: Chữ mâu không có dấu phết thì thà nh chữ dư, chữ mịch bử bớt chữ kiến sẽ ra chữ bất, chữ ái để mất chữ tâm thà nh chữ thụ và  chữ lực đi cùng chữ lai thì thà nh chữ sắc. Gộp cả 4 câu lại thì thà nh cụm từ Dư bất thụ sắc nghĩa là  Ta không nhận sắc phong.

Khi đã hiểu ra, chúa Trịnh giận giữ muốn đi bắt đoà n sứ giả của Аà ng Trong lại nhưng họ đã lẻn trốn đi từ trước và  theo đường biển trở vử Nam. Từ đây bắt đầu thời kử³ Trịnh - Nguyễn phân tranh.

Chúa Nguyễn ở Аà ng Trong nghe theo mưu kế của Аà o Duy Từ, cho đắp lũy Trường Dục và  Lũy Thà y ở vùng Quảng Bình để chống quân Trịnh. Những chiến lũy nà y được canh gác cẩn mật đến con ruồi cũng khó qua lọt. Аương thời dân gian có câu hát ca ngợi: Khôn ngoan qua cử­a sông La/Dẫu rằng có cánh khó qua lũy Thà y.

Nhử và o hệ thống chiến lũy nà y mà  quân Nguyễn dù binh lực, khí giới không bằng một phần ba quân Trịnh nhưng vẫn chống trả các cuộc tấn công có hiệu quả. Аó chính là  công lao của Аà o Duy Từ.

Giải mã việc dùng mâm đồng là m 'chiến thư' của Đào Duy Từ

Cổng và o phần mộ Аà o Duy Từ ở Hoà i Nhơn, Bình Аịnh.

Аừng đi lại nữa mà  chồng em ghen

Từ sau khi biết rằng Аà o Duy Từ là  nhân vật then chốt trong chính quyửn của Аà ng Trong, chúa Trịnh đã không tiếc của nả để mua chuộc lôi kéo ông vử với Аà ng Ngoà i. Аể thực hiện được mục đích, chúa Trịnh sai người mang nhiửu và ng bạc và o biếu Аà o Duy Từ kèm theo một bức thư riêng nhắc ông rằng tổ tiên, quê quán vốn ở Аà ng Ngoà i, nếu trở vử sẽ được triửu đình trọng vọng, cho giữ chức quan to.

Vốn Аà o Duy Từ người ở là ng Hoa Trai, nay thuộc xã Nguyên Bình, Tĩnh Gia, Thanh Hóa (Аại Nam thực lục tiửn biên, phần chúa Sãi Vương). Vì cha ông là  Đà o Tá Hán là  một kép hát nên Аà o Duy Từ không được tham gia thi cử­. Năm 21 tuổi, Duy Từ từng đổi sang họ mẹ để đi thi Hương và  đỗ á nguyên rồi tham gia tiếp kử³ thi Hội nhưng vì triửu đình phát giác ra việc ông là  con người kép hát nên đã bắt giam tra xét. Sự việc khiến mẹ Duy Từ phẫn uất đã tự tử­.

Suốt 30 năm sau đó, Аà o Duy Từ sống trong đau khổ, già y vò. Cuối cùng, không muốn để sống uổng một đời mình, Аà o Duy Từ đã tìm và o Nam theo chúa Nguyễn, và  ở đây, anh hùng tương ngộ, Duy Từ ngay lập tức được phong tước Hầu, là m quân sư bà n việc quân cơ đại sự. Chúa Nguyễn gọi ông bằng Thà y, cả miửn Аà ng Trong gọi ông bằng Thà y.

Nghĩ lại một thuở hà n vi của mình, Аà o Duy Từ đã trả lại quà  tặng và  viết bà i thơ đáp chúa Trịnh rằng: Ba đồng một lá trầu cay/Sao anh chẳng hửi những ngà y còn không/Bây giử em đã có chồng/Như chim và o lồng như cá cắn câu/Cá cắn câu biết đâu mà  gỡ/Chim và o lồng biết thuở nà o ra.

Аọc thư hồi âm, chúa Trịnh biết khó lôi kéo được Аà o nhưng lại thấy bà i thơ chưa có câu kết nên vẫn nuôi hi vọng. Bởi thế chúa lại sai người đem lễ vật hậu hĩnh hơn và o gặp Duy Từ. Lúc nà y Аà o Duy Từ mới viết nốt hai câu kết để trả lời dứt khoát: Có lòng xin tạ ơn lòng/Аừng đi lại nữa mà  chồng em ghen.

Trong lịch sử­ dân tộc, thật hiếm có nhân vật nà o có số phận như Аà o Duy Từ. Vốn mang tà i năng mà  suýt không có chỗ dùng. Nhưng cũng hiếm có ai được như ông, dù không phải là  nhà  sư phạm với hà ng ngà n môn hạ như cụ Khổng Tử­ nhưng vẫn được dân chúng khắp xứ Аà ng Trong gọi bằng Thà y. Với những đóng góp của mình cho sự nghiệp của họ Nguyễn, sau nà y khi viết Đại Nam thực lục tiửn biên, Quốc sử­ quán triửu Nguyễn đã ngợi ca ông là  công thần khai quốc số một. Аối với lịch sử­ dân tộc, đóng góp nổi bật nhất của Аà o Duy Từ là  đã để lại cuốn binh thư Hổ trướng khu cơ. Аó là  một cuốn sách dạy cách dùng binh duy nhất của người Việt còn tồn tại nguyên bản đến ngà y nay (hai cuốn Binh thư yếu lược và  Vạn Kiếp Tông bí truyửn thư của Hưng Аạo Vương đã không còn nguyên bản hoặc bị thất truyửn).

ĐVO