Nhà  thơ Thâm Tâm: Neo lại với đời bằng bà i thơ tống biệt

Truyện - Ngày đăng : 10:23, 26/09/2011

(NHN) "Thế giới thơ rất dân chủ, hay nói đúng hơn có lối công bằng kử³ quặc. Người có một câu hay được nhắc đến như người có vạn bà i, miễn rằng câu ấy đã đến được xứ thơ" - Nhận xét trên của Chế Lan Viên được nảy ra khi ông nghĩ vử đời thơ Bích Khê.

Cũng đúng với trường hợp Thâm Tâm. Viết ít và  mất quá sớm, nhưng chỉ với một "Tống biệt hà nh" thôi đã đủ để tên tuổi Thâm Tâm mãi mãi neo lại với đời. Nói theo cách của John Don "Nếu sóng cuốn xuống biển một mửm đá ven bử thì châu à‚u sẽ bé đi", phong trà o Thơ Mới dù đã đem đến cho độc giả nhiửu bà i thơ hay, song cũng sẽ khiến ta có cảm giác trống vắng nếu như thiếu đi một "Tống biệt hà nh" của Thâm Tâm. Аó là  bà i thơ có nhiửu điểm độc đáo cả vử nội dung và  hình thức.

Аưa người, ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiửu không thắm, không và ng vọt

ao đầy hoà ng hôn trong mắt trong? 

Аưa người, ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình, một dử­ng dưng...

- Ly khách! Ly khách! Con đường nhử 

Chí nhớn chưa vử bà n tay không

Thì không bao giử nói trở lại!

Ba năm, mẹ già  cũng đừng mong. 

Ta biết người buồn chiửu hôm trước

Bây giử mùa hạ sen nở nốt

Một chị, hai chị cũng như sen

Khuyên nốt em trai dòng lệ sót. 

Ta biết người buồn sáng hôm nay: Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay Em nhử ngây thơ đôi mắt biếc Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay... 

Người đi? ửª nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà  coi như chiếc lá bay

Chị thà  coi như là  hạt bụi

Em thà  coi như hơi rượu say

Bà i thơ được viết theo thể hà nh - một thể thơ cổ phong có đặc điểm là  khá tự do phóng túng, vốn thịnh hà nh ở thời Hán Ngụy (Trung Quốc). Thể thơ nà y đến thời Thơ Mới ít được dùng, và  cũng không mấy tác giả thà nh công. Vì lẽ ấy mà  ngoà i yếu tố hay, "Tống biệt hà nh" còn có một vị trí riêng.

Nếu xét ngữ nghĩa từng câu thì không có gì thật khó hiểu, nhưng trên tổng thể cả bà i thì quả là ... phức tạp. Аến nay, mặc dù bà i thơ được nhiửu người phân tích, bình luận, nhưng xem ra các ý kiến đối chọi nhau chan chát. Chỉ riêng việc ra đi của nhân vật "người ấy" (Аưa người ta chỉ đưa người ấy) mà  mỗi tác giả một cách hiểu. Giáo sư Nguyễn Аình Chú cho rằng: "Người ra đi ở đây chính là  người chiến sĩ cách mạng, giã nhà  lên đường đi chiến đấu (có thể là  lên chiến khu, khi đó đã thà nh lập ở Việt Bắc và  trở thà nh một nơi bí mật và  thiêng liêng, hấp dẫn với mọi người thời ấy)" (sách "Văn 11" dà nh cho giáo viên, NXB Giáo dục, 1991). Nhà  thơ Vũ Quần Phương lại hiểu: "Cái chí nhớn, một đi không trở lại ở trên, nó chẳng có gì là  đáng tự hà o, nó là  việc bất đắc dĩ. Ở lại thì bế tắc, nhưng ra đi chưa thấy gì là  tươi sáng, nó tự nhủ bằng cái vẻ bi hùng của Kinh Kha bên sông Dịch thì cũng chẳng lừa được chính mình" (sách "Thơ với lời bình", NXB Giáo dục, 1990).

Ký hoạ chân dung nhà  thơ Thâm Tâm.

Nhà  phê bình văn học Trần Аình Sử­, mặc dù không tán đồng với những ý kiến trên, cho rằng chúng "thiếu sức thuyết phục, nặng vử suy diễn", song ở cả hai bà i viết in trong tập "Аọc văn học văn" (NXB Giáo dục, 2001), cũng chỉ dám khẳng định người ra đi là  "một con người quyết dứt bử tình riêng ra đi vì chí lớn". Còn "chí lớn" ấy cụ thể là  gì, được thể hiện như thế nà o thì không cắt nghĩa được. Qua đó mới thấy, "Tống biệt hà nh" thực sự là  bà i thơ phức tạp (nói như Trần Аình Sử­ là  "không dễ giảng"). Người viết bà i nà y từng có một ý nghĩ vui: Nếu coi đây là  bà i thơ viết vử cuộc tiễn đưa một chiến sĩ cách mạng giã nhà  lên chiến khu (như ý kiến của Giáo sư Nguyễn Аình Chú) thì tỉ dụ bà i thơ có rơi và o tay mật thám, chịu chết chúng cũng không xác định được hà nh tung của nhân vật. Chẳng hạn, đọc mấy câu:

Аưa người, ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiửu không thắm, không và ng vọt

Sao đầy hoà ng hôn trong mắt trong?

là m sao xác định được cuộc tiễn đưa ấy diễn ra ở đâu, tại nhà  ga, bến tà u nà o? Аọc những câu: "Аưa người, ta chỉ đưa người ấy/ Một giã gia đình, một dử­ng dưng" cũng chẳng thể xác định được "người ấy" là  ai? Аặc biệt, với câu thơ "Chí nhớn chưa vử bà n tay không" - không thể khép nhân vật và o tội danh nà o được. Аọc mấy câu "Một chị, hai chị cũng như sen/ Khuyên nốt em trai dòng lệ sót" và  "Em nhử ngây thơ đôi mắt biếc/ Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay", cũng khó xác định được chính xác thân nhân của con người nà y.

Một nhà  thơ tinh nhạy ngôn ngữ như Vũ Quần Phương, đọc mấy câu thơ trên còn cho rằng "người ấy" có "mẹ già , một chị, hai chị và  đứa em gái" (không rõ mấy chị nữa?), trong khi tác giả Huệ Thu, ở một bà i in trong tập "Sương chiửu thu đọng" (xuất bản tại Mử¹ năm 1991) lại hiểu nhân vật "Em nhử ngây thơ đôi mắt biếc" là ... "thằng em út". Còn nhà  phê bình văn học Trần Аình Sử­ thì cẩn thận gọi là  "Mẹ già , chị gái, em thơ" (không dám khẳng định là  em trai hay em gái). Rõ rà ng, bà i thơ có những điểm không dễ xác định. Có cảm tưởng tác giả là m thơ mà  như nói với riêng mình. Chuyện chỉ cần nói tắt là  đủ hiểu, trong khi người bên ngoà i phải khó nhọc lắm mới nắm bắt được đúng ý người nói? Không chỉ ở mấy đoạn trích dẫn trên mà  ở khổ thơ kết, bên cạnh việc có người cho rằng đó là  ý nghĩ của "người đưa tiễn" thì không ít người lại hiểu đó là  lời tâm sự cùng gia đình của "người ra đi". Quả là  hiếm có bà i thơ nổi tiếng nà o mà  rắc rối, mà  tạo nên nhiửu cách hiểu như "Tống biệt hà nh" của Thâm Tâm.

Nhưng nói vậy không có nghĩa là  ở "Tống biệt hà nh", mọi sự đửu...rối beng, muốn hiểu thế nà o cũng được. Nhà  phê bình văn học Trần Аình Sử­ đưa ra một lời khuyên xác đáng: "Аối với bà i thơ như bà i nà y, theo chúng tôi, trước hết nên tìm hiểu cấu tứ bà i thơ để hiểu nó nguyên phiến, toà n vẹn. Còn câu chữ bà i thơ, nói như Triệu Chấp Tín đời Thanh, chỉ là  cái râu, cái vẩy của con rồng bay hiện ra ngoà i đám mây mà  thôi, không thể đầy đủ được". Theo ông, "Bà i thơ nà y là  lời của người đưa tiễn nói vử người ra đi", "người tiễn rất hiểu người đi và  chỉ nhử sự bộc lộ cảm xúc của người tiễn mà  hình ảnh của người đi hiện lên mạnh mẽ, cao cả, một con người quyết dứt bử tình riêng ra đi vì chí lớn".

Vử cơ bản, tôi cho độc giả cần hiểu như vậy và  cứ trên cái "sườn" ấy, hẳn sẽ thẩm thấu được tương đối đủ đầy ý nghĩa nhân văn của bà i thơ. Tiếc là , tác giả nói thì nói vậy nhưng lại không thực hiện được triệt để điửu ông vừa khuyên nhủ bạn đọc: Trong hai bà i viết dà i tới 5-6 ngà n chữ của mình (mà  chúng tôi đã nhắc tới ở đầu bà i viết), không ít chỗ ông xông và o cắt nghĩa, giải thích tỉ mỉ từng câu từng chữ, khiến cho ý nghĩa của bà i thơ phần nà o bị nhòe đi, chệch ra ngoà i cái hướng chung mà  ông từng nêu.     

 "Tống biệt hà nh" là  một bà i thơ hay. Vử nhạc tính, có thể nói đây là  bà i thơ có cách phối nhạc rất đặc biệt, các chữ va nhau nghe như chuông và ng, khánh bạc. Аể tạo được hiệu quả nà y, tác giả sử­ dụng nhiửu điệp ngữ, điệp vần. Còn vử hình ảnh, tuy nói cuộc chia tay không diễn ra ở một nơi có sông có nước, ở một thời điểm có bóng hoà ng hôn, nhưng những hình ảnh ấy vẫn trà n ngập không gian thơ. Cộng với những hình ảnh rất già u biểu cảm như sen cuối hạ, trời chưa và o thu, hình ảnh chiếc khăn tay, hạt bụi, người đi, lá bay...  , bà i thơ đã tạo nên được những dư ba trong lòng người. Ngoà i việc mở đầu bằng những câu rắn rửi, gân guốc (chữ của Hoà i Thanh) rất hợp với nội dung cần thể hiện, bà i thơ còn chinh phục người đọc bằng những câu có giai điệu "ngọt xớt", kiểu như:

Ta biết người buồn sáng hôm nay: Giời chưa mùa thu tươi lắm thay hoặc:

Người đi? ửª nhỉ, người đi thực

Mẹ thà  coi như chiếc lá bay

Chị thà  coi như là  hạt bụi

Em thà  coi như hơi rượu say

Rất mửm mại mà  chuyển tải được bao tình ý. Có thể khẳng định, ngoà i cái khoáng đạt của nội dung, "Tống biệt hà nh" còn thực sự lôi cuốn người đọc bởi một thứ nhạc tính tung tẩy, sảng khoái. Và , một điửu thật đáng nói, trong phong trà o Thơ Mới, đã có những bà i hay mà  ý tứ và  cấu trúc giai điệu tương đối giống nhau, song ở cả hai phương diện nói trên, không có bà i nà o "na ná" như "Tống biệt hà nh" của Thâm Tâm.

Cuộc đời Thâm Tâm kết thúc ở tuổi 33 và  sự nghiệp thi ca của ông chỉ gói lại trong khoảng hai chục bà i, đa phần đửu được ông viết và o giai đoạn trước Cách mạng. Tác giả Bùi Văn Trọng Cường đã nhận xét đúng: "Gam mà u chủ đạo của hồn thơ Thâm Tâm là  trầm và  lạnh". Thâm Tâm rất có sở trường trong việc thể hiện tâm thế "bất đắc chí", cũng như "khẩu khí" của mình:

Bọn ta một lớp lìa nhà 

Cháo hà ng cơm chợ, ngồi ca lúa đồng

(bà i "Tráng ca")

Mấy lần thù trả thân không chết

Khắp xóm giang hồ khét họ tên

Vợ con thí tất cho thiên hạ

Yêu rất ban ngà y, ghét rất đêm

(bà i "Can trường hà nh")

Nhưng dẫu sao đó cũng chỉ là  những câu thơ đơn lẻ, nằm lẫn trong những bà i thơ tản mát vử ý tưởng, rời rạc vử giai điệu. Không bà i nà o tầm vóc được như "Tống biệt hà nh". Bởi vậy, đọc những bà i nà y, dẫu biết chúng được viết sau "Tống biệt hà nh", ta vẫn có cảm giác đó là  chỉ những nét thử­ bút của thi nhân mà  thôi...

CAND