Nhà thơ Hữu Thỉnh: Cánh chim đầu đà n của thơ ca chống Mử¹
Mỹ thuật - Nhiếp ảnh - Ngày đăng : 15:00, 28/09/2011
Từ người chiến sĩ trên trận tuyến chống quân thù
Nói vử thế hệ các nhà thơ chống Mử¹, trước hết phải thừa nhận rằng phần lớn họ đửu là những người lính cầm súng đánh giặc nơi chiến trường, ngà y đêm đương đầu trước hòn tên mũi đạn, trước bao gian nan thử thách của cuộc chiến không cân sức vử tiửm lực kinh tế và quân sự giữa quân đội ta và kẻ thù xâm lược.
Tuy nhiên, mọi cuộc chiến không phải bao giử chiến thắng cũng thuộc vử phía những người mạnh hơn vử vật chất, mà đôi khi là ngược lại. Thế hệ những người lính đánh Mử¹ cách đây hơn 30 năm vử trước đã chứng minh cho cả loà i người thấy rằng một dân tộc dù nhử bé, không mạnh vử tiửm lực kinh tế và quân sự, nhưng yêu đất nước mình, yêu hoà bình, độc lập và tự do thì dân tộc ấy hoà n toà n có thể chiến thắng một kẻ thù mạnh hơn họ gấp nhiửu lần.
Đấy chính là nguồn cội góp phần lý giải tại sao dân tộc Việt Nam lại có thể chiến thắng đế quốc Mử¹ và tại sao thế hệ những người lính như anh Hữu Thỉnh lại có thể ra chiến trường với một niửm tin sắt đá và o thắng lợi cuối cùng của dân tộc ta. Và tại sao giữa chiến trường máu lửa khốc liệt đến như thế mà các anh vẫn cứ vừa đánh giặc vừa là m thơ.
Nhà thơ Hữu Thỉnh đọc diễn văn trong Lễ đón nhận danh hiệu anh hùng lao động
Cũng cần phải nói thêm rằng thế hệ các nhà thơ chống Mử¹ phần lớn đửu là những người nông dân mặc áo lính đến từ mọi miửn của tổ quốc thân yêu. Họ còn rất trẻ và chưa mấy khi xa nhà , xa cái lũy tre là ng nên khi ra đi họ rất hồ hởi, phấn khởi, không hử do dự đắn đo gì vử được mất, thiệt hơn, thậm chí họ còn lạc quan đến mức tếu táo: đường ra trận mùa nà y đẹp lắm.
Quả thực có trải qua chiến tranh mới thấy chẳng có đường ra trận nà o đẹp cả, mà đầy gian khổ hy sinh kể cả sức lực, tinh thần và đôi khi là cả tính mạng nữa. Nhưng những người lính nông dân lần đầu ra trận nà o đâu có thấu hiểu gì nên cứ ngử nghệch mà tếu táo vậy. Trong chiến tranh nhiửu khi cái ngử nghệch lại đem đến cho họ một sức mạnh tinh thần nà o đấy để vượt qua gian khổ và hy sinh, mà nhiửu khi quá sức chịu đựng đối với họ. Bởi lẽ, trong cảnh bom rơi đạn nổ, mọi suy nghĩ đắn đo hay những giọt nước mắt nà o đâu có ích gì, thà cứ cười lên, đùa vui đi cho thửa chí nam nhi.
Nhà thơ Hữu Thỉnh sinh ngà y 15-2-1942 với tên khai sinh là Nguyễn Hữu Thỉnh. Anh quê ở là ng Phú Vinh, xã Duy Phiên, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Từ hòa bình lập lại (1954) anh Hữu Thỉnh mới được đi học.
Năm 1963, vừa tốt nghiệp phổ thông, anh và o bộ đội, là lính của Trung đoà n 202, binh chủng tăng thiết giáp. Sau thời gian huấn luyện anh và o chiến đấu ở chiến trường miửn Nam. Sau năm 1975, anh được cử đi học tại trường viết văn Nguyễn Du khóa I.
Từ năm 1982, anh đã kinh qua nhiửu cương vị công tác như: Biên tập viên rồi Trưởng ban thơ và là m Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ năm 1990, nhà thơ Hữu Thỉnh chuyển sang là m Tổng biên tập Tuần báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hà nh Hội nhà văn các khoá 3, 4, 5, 6, 7. Đại biểu Quốc hội khoá X, XI. Hiện nay anh là bí thư Đảng Đoà n, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương, Chủ tịch Uỷ ban Toà n quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Bồi dườ¡ng Viết văn Nguyễn Du.
Có thể nói đấy là phần đời và có thể coi đấy là một bên cánh vô cùng vững chãi của con chim đầu đà n thi ca chống Mử¹, nhà thơ Hữu Thỉnh.
Nhà thơ Hữu Thỉnh đang phát biểu
Đến một nhà thơ đầu đà n của thơ ca chống Mử¹
Thực ra, nói nhà thơ Hữu Thỉnh là cánh chim đầu đà n của thi ca chống Mử¹ cũng đúng, nhưng chưa trọn nghĩa. Bởi lẽ sự nghiệp thơ ca của anh được nuôi dườ¡ng và nảy mầm từ cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Dù quãng thời gian ấy vô cùng quan trọng trong việc hình thà nh phong cách thơ của anh, nhưng 36 năm sau ngà y đất nước hoà n toà n giải phóng, anh vẫn tiếp tục là m thơ và có thể coi giai đoạn sáng tác thơ sau nà y của anh cũng quan trong không kém. Nó đã tạo nên một sự hoà n thiện đáng kể đối với sự nghiệp văn chương của anh.
Nhìn và o thời gian xuất hiện các tác phẩm của anh, chúng ta có thể thấy phần lớn số lượng được hoà n thà nh và xuất bản sau nà y. Chỉ có tập thơ đầu tay à‚m vang chiến hà o của anh là được xuất bản và o năm 1976. Trong tập nà y có hai bà i thơ mà anh đã đoạt giải A cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ năm 1975- 1976 là Chuyến đò đêm giáp ranh và Sức bửn của đất. Điửu thú vị là cả hai bà i thơ trên chính là hồn cốt của hai trường ca cùng tên mà mãi sau 24 năm anh mới kịp hoà n thiện.
Tiếp sau đó là các tập thơ Đường tới thà nh phố (Trường ca- 1979), Khi bé Hoa ra đời (Thơ thiếu nhi- in chung), Thư mùa đông (thơ 1994), Trường ca Biển (1994), Thơ Hữu Thỉnh (1998), Sức bửn của đất(trường ca, 2004), Thương lượng với thời gian (thơ 2005)...
Cần nhớ rằng trước khi đoạt giải A cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ, nhà thơ Hữu Thỉnh đã đoạt giải C ở cuộc thi thơ của báo nà y và o năm 1972- 1973. Đến năm 1980, anh nhận Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam với trường ca Đường tới thà nh phố và năm 1995 với tập thơ Thư mùa đông; Giải xuất sắc của Bộ Quốc phòng năm 1994 với Trường ca biển, năm 1999 anh nhận Giải thưởng Văn học ASEAN. Năm 2001, nhà thơ Hữu Thỉnh được tặng Giải thưởng Nhà nước vử văn học Nghệ thuật đợt I.
Như vậy có thể thấy với anh văn chương (thơ) là một quá trình phấn đấu liên tục không ngừng nghỉ, dù vử sau nay anh phải đảm đương nhiửu công việc của Hội và của Quốc hội. Với nhiửu người khác có thể không còn thì giử để cho thơ nữa. Nhưng với anh Hữu Thỉnh dường như là cà ng bận, anh lại cà ng là m thơ hăng và thơ anh ngà y cà ng gắn chặt hơn với đời sống của người dân thời cơm áo, gạo tiửn: Buổi sáng lo kiếm sống/ Buổi chiửu tìm công danh/ Buổi tối đem trí khôn ra mà i rũa/ Tỉnh thức/ Những hà ng cây bật khóc (Thương lượng với thời gian).
Nhà thơ Hữu Thỉnh tiếp các nhà văn trẻ TP.HCM
Một trong những bà i thơ của anh mà tôi thích nhất là bà i Nghe tiếng cuốc kêu. Ở đây tôi nhận ra một anh Hữu Thỉnh sâu thẳm trong suy tư, nhưng vẫn rất lính và chưa hử phai nhạt duyên phận với nà ng thơ thưở nà o: Những đám mây bay đi/ Tôi với người ở lại/ Cuốc kêu ngoà i bến sông/ Cuốc kêu vì bẫy hiểm/ Bèo leo nheo nước lên... Cuốc kêu từ ngà y cây tre chưa đủ lá đan sang.../ Cuốc kêu từ ngà y em lạy mẹ lạy cha/ Đi theo một sợi tơ hồng/ Vử với anh thà nh vợ thà nh chồng/ Tình yêu nhiửu đứt nối/ Ta xin rừng một chiếc giường con/ Xin đất một chiếc ấm nhử/ Một đời người mà chiến chinh nhiửu quá/ Em níu giường níu chiếu đợi anh/ Em trát những người con trai đẹp/ Đợi anh/ Chỉ mong anh vử/ ào rách cũng thơm/ Chiếc chạn nhử với và i đôi đũa mộc/ Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toà n là hạnh phúc/ Chúng ta đã từng vò võ đợi nhau/ Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế...
Ở cái thời buổi con người sống phải nhử và o những chiếc bẫy hiểm để bắt con vật hay là giăng bắt đồng loại, thì than ôi... (!?). Trong chiến tranh sao con người sống với nhau thân thiện, đối xử với nhau nhân bản thế. Thân thiện và nhân bản là hiện thân của hạnh phúc mà ai cũng cần. Nhưng điửu đó có lẽ chỉ đúng khi con người phải tựa và o nhau để tồn tại qua cơn hiểm nguy của số phận mà thôi. Đến khi bình yên xây dựng cuộc sống, những hạnh phúc xem chừng rất nhử nhoi như Chiếc chạn nhử với và i đôi đũa mộc cũng chỉ là một giả tưởng.
Cũng là chuyện không mấy khó hiểu tâm trạng của nhà thơ lúc nà y. Những người sống nghĩa tình nhất bao giử cũng là những người đau khổ nhất khi gặp cảnh đời éo le, tráo trở. Đọc những câu thơ như thế nà y lòng ai chẳng quặn đau đến cháy mửm gan ruột, nếu như người đó chưa thật sự mất hết nhân tính: Mỗi lần sau đám tang/ Lòng ai cũng héo/ Dạ ai cũng sầu/ Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa/ Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ/ Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế/ Giếng nước than lắm kẻ chao chân/ Khu vườn than: có những con sên ngấp nghé lên trời/ Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi/ Tôi ngồi buồn như lá sen rách...
Có thấu hiểu được lòng người, lẽ đời mới thấy được sự cao thượng, lớn lao và rất đỗi con người của nhà thơ qua những con chữ xé nát tâm can nà y. Tôi tin rằng anh Hữu Thỉnh phải khó khăn, thậm chí là đau khổ lắm trong nhiửu đêm, nhiửu tháng, nhiửu năm mới có thể viết được những câu thơ như thế. Và tôi tin rằng với một tấm lòng đầy trắc ẩn và một tâm hồn nhạy cảm như anh, nà ng thơ sẽ chẳng thể buông tha anh suốt cuộc đời nà y. Chúc mừng anh đã, đang và sẽ gặt hái được nhiửu thà nh công hơn nữa trên con đường sáng tạo thi ca.