Sương Hồ Tây Mây Tháp bút
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 09:11, 21/11/2011
Thơ chân dung văn học, có nghĩa cả cuộc đời, văn nghiệp mỗi tác gia đửu phải được khái quát rồi đúc rút được đặc điểm tà i năng, tác phẩm, chỉ trong hai ba chục dòng thơ, đó phải là công trình tính bằng thập kỷ! Rồi chỉ trong 8 năm tiếp sau, ngoà i 4 tập thơ (có 2 tập viết cho thiếu nhi) và 1 cuốn bút ký, anh đã cho ra mắt tập biên khảo Nghìn câu thơ tà i hoa Việt Nam, lần nà y thì con số tác giả thơ được chọn những câu thơ hay lên tới gần 900 người trong cả nghìn năm thơ Việt.
Tiếp theo, hai lần tái bản sau có bổ sung, con số tác giả lên đến 1200 người. Chỉ công tìm đọc thôi, việc nà y đã ngốn một lượng thời gian, công sức khổng lồ. Riêng bà i dẫn luận ở đầu sách với 60 trang in khổ 14,5-20,5, đã là một công trình nghiên cứu vử thơ đa chiửu, anh phân tích có đến 7 chiửu không gian thơ và quan niệm tiếp cận chân lý nghệ thuật, đã rút ra được nhiửu điửu bổ ích cho lý luận thơ.
Đến năm 2008, ta lại được đọc trường ca Văn đà n bi tráng. Lại đủ mặt những nhà thơ bị thương tích trong trường văn trận bút được điểm ra trong tiến trình cách tân thơ Việt...Quả là một con đường anh đã tìm riêng cho mình: là m thơ vử những văn tà i, như anh từng viết trong Nhà văn Việt Nam hiện đại:
Lao động sáng tạo của nhà văn luôn hướng tới chân “ thiện “ mử¹. Ngỡ như trong tầm tay với mà mỗi khi đến gần, đích ấy lại lùi xa. Thách đố hấp dẫn và khắc nghiệt nà y cuốn hút mọi thế hệ nhà văn khiến mỗi người phải tìm cho mình con đường riêng để tiếp cận giá trị muôn đời không cũ ấy!
Năm nay, với tác phẩm mới nhất, anh dà nh cho chủ đử Ngà n năm thương nhớ đất Thăng Long, là tập thơ Sương Hồ Tây- Mây Tháp Bút.
Nguyễn Vũ Tiửm người Hà Nội gốc, quê anh và gia đình ở Ninh Hiệp, Gia Lâm. Nửa đầu đời, anh dạy học ở Hà Nội, sau 1975 mới định cư ở thà nh phố Hồ Chí Minh, vẫn trong ngà nh giáo dục nhưng anh chuyển sang là m báo. Vậy là đã nửa đời xa quê, trách gì lòng quê chẳng sớm chiửu đau đáu...
Anh nhớ nhất là những đặc điểm khí hậu bốn mùa của Hà Nội:
Phố đã phượng rồi, tranh đã cúc/Khung vải xôn xao gió chuyển mùa/........../Sông Cái mùa nà y đang cạn nước/Lại đầy dần trên những búp non
(Giao cảm bốn mùa)
Nỗi nhớ Hà Nội có dịu đi không, khi anh ngắm bức tranh của Bùi Xuân Phái:
Có chà ng hiệp sĩ vung cây cọ/Chấm và o thương nhớ mử xa/ ........../Thời gian mối mọt/Nghiến và o quên nhớ trong ta.
(Bùi Xuân Phái)
Anh nhớ từng ngõ cổ Hà Nội, những đêm mùa đông, văng vẳng tiếng rao khuya:
Tiếng rao khuya sớm mửi mòn/Hay hồn dĩ vãng còn hửn gió sương
Ngõ Quan Thổ, phường Hà ng Bột, hồ Văn Chương có ngôi nhà của Nguyễn Vũ Tiửm, anh tưởng tượng như đây đó rất gần thảm án tru di của gia tộc Nguyễn Trãi, máu và những hồn oan như còn thấm đẫm con đường sử thi ngà y ấy:
Tìm trong thế kỷ qua đi/ử¨c Trai đội án tru di nơi nà y?/Pháp trường dựng ở nơi đây/Sáu trăm năm vẫn lưu đầy gió trăng!
(Ngõ Quan Thổ)
Mỗi lần vử lại đất quê Hà Nội, anh đửu đến thăm những công trình mới, những phòng tranh mới, cả những đổi thay mà anh mới ghi nhận qua thông tin báo chí, anh phải đến cho thực mục sở thị. Ngà y nà o anh hẹn đến thăm tôi mà bị muộn mươi phút, anh xin lỗi vì phải đi thăm nốt bức tường tranh gốm sứ ven sông Hồng, kẻo đến giử ra sân bay lại không có dịp quay lại. Hôm nay đã thấy câu thơ hẳn anh ghi từ hôm ấy:
Lối xưa xe ngựa vừa đi tới/Cùng chiếc Honda dáng ngựa hồng
(Thơ tranh gốm sứ bử đê)
Đọc thơ" Sương Hồ Tây, mây Tháp Bút"
Hà Nội là nơi có nhiửu bè bạn văn chương thân thuộc, phải xa họ nhưng anh vẫn nhớ một cách thiết thực bằng cách chọn thơ hay của họ và o tập Nghìn câu thơ tà i hoa VN. Có những đấng bậc mà nay có muốn gặp cũng không sao gặp được, 35 năm xa Hà Nội, gần như một thế hệ những người thà y, người anh đã vử cõi vĩnh hằng, nhưng có bao cách cho anh nhớ. Những số nhà , địa chỉ có khi chủ nhân ghi ngay nó và o thơ: 9 gác Lãn à”ng/ Lòng xanh xuân chử/ Gió mùa xổ cửa/ Tim đèn rong khuya... (thơ Lê Đạt).
Anh là m thơ vử chủ nhân ngôi nhà rất Hà Nội nà y, đã nói thay các nhà thơ vử sự dằn vặt cũ, mới, lẽ còn, mất trong sáng tạo:
Rồi sẽ không lâu, tôi cũng lỗi thời/Chữ không bầu nhà thơ nữa/Tôi trở lại Trung Hà , Phú Xá/Học lại những điửu xanh tươi/Bà i vỡ lòng cái mầm, cái hạt/Dòng đầu tiên cái nụ, cái chồi
(Tâm sự nhà thơ số 9 phố Lãn à”ng)
Tết nà o mà những người con tha hương chẳng thu xếp vử thăm quê, nhất là khi còn mẹ già tựa cửa ngóng con. Nhưng tôi biết Nguyễn Vũ Tiửm vẫn tranh thủ từng giử sau khi đã là m nghĩa vụ người con hiếu, thăm lại những địa điểm cổ kính như từng trang lịch sử vẫn sống động hôm nay, đó là những mặt tường Văn Miếu rêu phong, gần Tết lại có những ông đồ trẻ nối tiếp công việc của ông Đồ muôn năm cũ của Vũ Đình Liên. Đây là nhận xét riêng của Nguyễn Vũ Tiửm trên đử tà i ngỡ đã cũ:
Người viết nhập thần từng nét chữ/Người chử, nhận lộc của nghìn năm!
(Người viết thư pháp ở Văn Miếu)
Quê Nguyễn Vũ Tiửm vùng tả ngạn sông Hồng nên cái nhớ của anh không quá quẩn quanh với phố xá. Mùa xuân ngọai thà nh có những nét duyên riêng, nhớ những ngà y rằm tháng Giêng, chúng tôi hay rủ nhau vử Bắc Biên, Gia Lâm thăm nhà thơ Thanh Hà o. Từ đó, đi tản bộ qua ngôi chùa cổ có đôi câu đối của bậc ẩn danh nà o đó, lời đẹp hơn thơ: Khúc kính, vân thâm, tăng lạp trọng/ Nhà n môn, hoa lạc, khách hà i hương mà sinh thời nhà thơ Trần Lê Văn đã dịch, cũng rất thơ Ngõ khuất, mây sâu, sư nặng nón/ Cửa nhà n, hoa rụng, khách thơm giầy.
Thơ Nguyễn Vũ Tiửm khi viết vử cảnh quê rất đậm chất men say tình xóm mạc, tôi xin gậy ông đập lưng ông, học cách chỉ thơ hay mà chọn, ít bình (dà nh những mặt còn hạn chế của tập thơ cho nhà phê bình) để giới thiệu được nhiửu câu thơ tôi thích:
Chấp chới cánh ong và ng/Hay hồn tôi ngược chiửu gió bấc?/ ......../Dòng sông Cái đang phải lòng xóm bãi/ ........./Gặp mướt xanh Phú Xá bắp đang cử /Xin san sẻ chút niửm vui hoa phấn
Những con chữ của anh căng mọng theo hoa trái thiên nhiên:
Ngà y đầy đặn tròn phây chùm vú sữa/Cứ đung đưa niửm khao khát trong ngời
(Trước thửm giêng hai)
Bà i thơ dà i ở phần cuối sách chứng tử cái tình quê Hà Nội của anh mở rộng ra cả châu thổ sông Hồng, chứ không như chúng tôi, nhớ Hà Nội chỉ có nghĩa nhớ phố xá, Hồ Tây, bánh tôm, chả cá...Viết vử vùng quê, dân thà nh phố chúng tôi thường nặng vử thụ hưởng sự trong là nh, chân chất...còn với Nguyễn Vũ Tiửm, anh chia sẻ được với người nông dân sự nhọc nhằn, lao khổ, một nắng hai sương:
Hãy lội thật sâu xuống đồng lam lũ/Dầm trong vũ thủy, thu phân, sương giáng, đại hà n
Đọc thơ Nguyễn Vũ Tiửm, ta thường gặp đây đó những kết cấu ngôn từ siêu thường:
Bưng lên bát cơm xới đầy thất bát/Gắp miếng nhọc nhằn đã muối thà nh dưa.
Những chữ quen thuộc: thất bát, nhọc nhằn đặt trong tương quan khác lạ, bỗng trở nên sinh động, mới mẻ. Câu thơ có thêm những tầng ý nghĩa, trở nên sâu sắc hơn, hấp dẫn hơn. Một trong những yêu cầu của sáng tạo là nhà thơ phải là m mới ngôn ngữ. Nguyễn Vũ Tiửm rất ý thức điửu nà y và anh đã lao động nghệ thuật khá nghiêm túc, mang lại hiệu quả rất đáng ghi nhận.
Anh đã khái quát được cái đẹp trong gian truân vất vả của nghử nông:
Bao thế hệ hà i đồng lúa nước/Được hạn hán bế bồng, bão lụt đưa nôi.
Một châu thổ ngời ngợi sức sinh sôi của người và đất:
Châu thổ mưa vử như thiếu phụ đang xuân/Nghe nhịp sống vồng căng cựa đạp...
(Trích trường ca Mưa phồn thực và châu thổ sông Hồng)
Nguyễn Vũ Tiửm là một trong những bạn văn Hà Nội lập cư ở thà nh phố Hồ Chí Minh sau ngà y Thống nhất đất nước, đã tô đậm được cách sống văn hóa và nhất là sự lao động nghệ thuật nghiêm túc, hết mình, không hổ là người trí thức Hà Nội đi gieo tiếp những mùa, vụ phương Nam.