Hình ảnh bà trong thơ ca
Mỹ thuật - Nhiếp ảnh - Ngày đăng : 14:00, 04/04/2012
Từ những câu ca dao mượt mà , tình tự đến những bà i thơ hiện đại của Xuân Quử³nh, Bằng Việt, Nguyễn Duy..., hình ảnh bà vẫn là một sức hấp dẫn lớn đối với nhà thơ và những người yêu thơ - một hình ảnh thiêng liêng, cao quý nhưng cũng rất gần gũi, thân thương.
Thi sĩ Xuân Quử³nh, nhớ vử bà là nhớ vử những kỉ niệm tuổi nhử của một thời hồn nhiên, vô tư, trong sáng. Bà i thơ Tiếng gà trưa (1965) ra đời trong những năm chiến tranh gian khổ ác liệt của cuộc đấu tranh chống đế quốc Mĩ. Trên đường hà nh quân xa mửi mệt, đói khát, người chiến sĩ bỗng nghe thấy tiếng gà trưa, tiếng gà nhảy ổ, một thứ âm thanh quen thuộc của là ng quê, và chính âm thanh khửe khoắn đầy sức sống ấy đã xua tan những vất vả nhọc nhằn, là m xao động trái tim thi sĩ, gợi vử và mở ra cả một khung trời kỉ niệm: "Trên đường hà nh quân xa / Dừng chân bên xóm nhử / Tiếng gà ai nhảy ổ: " Cục... cục tác cục ta" / Nghe xao động nắng trưa / Nghe bà n chân đỡ mửi / Nghe gọi vử tuổi thơ".
Tiếng gà trưa là tiếng lòng của người cháu dà nh cho bà với biết bao tình cảm sâu nặng. Bằng những câu thơ ngũ ngôn giản dị, kết cấu theo phương thức tự sự - trữ tình, lối trùng điệp, nhà thơ đã vẽ ra một bức tranh sinh động vử hình ảnh của một là ng quê nghèo với hai nét vẽ chủ đạo in đậm trong tâm trí người đọc là hình ảnh bà và cháu. Nhớ vử quê hương là nhớ vử bà với tiếng gà trưa thân quen, da diết. Viết vử kỉ niệm tuổi thơ, câu thơ Xuân Quử³nh ăm ắp những xúc động, lung linh sắc mà u của tình thương yêu, nhưng cũng không khửa lấp đi tiếng cười hồn nhiên, tinh nghịch của trẻ thơ. Nghe tiếng gà , thi sĩ thấy vọng vử hình ảnh bà với lời mắng yêu đứa cháu nhử dại vì tội trộm xem gà đẻ:
Tiếng gà trưa /Có tiếng bà vẫn mắng:/- Gà đẻ mà mà y nhìn /Rồi sau nà y lang mặt!/Cháu vử lấy gương soi /Lòng dại thơ lo lắng
Nhớ vử bà là nhớ dáng hình, cử chỉ, hà nh động dù bé nhử, đơn sơ nhưng đầy ắp nghĩa tình. Bà chắt chiu, lo lắng cho đà n gà cũng chính là lo cho cháu với tình thương yêu bao la: "Cứ hà ng năm hà ng năm / Khi gió mùa đông tới / Bà lo đà n gà toi / Mong trời đừng sương muối / Để cuối năm bán gà / Cháu được quần áo mới". Để cháu có cái quần chéo go, ống lê dà i sát đất; cái áo cánh Chúc Bâu, đi qua nghe sột soạt, bà đã phải thức khuya dậy sớm chăm sóc đà n gà , không quản ngại khó khăn, gian khổ. Bộ quần áo ấy dệt bằng tình thương yêu không thể diễn tả thà nh lời.
Với Xuân Quử³nh, bà cũng chính là mẹ, người luôn vỗ vử, chở che, an ủi, người mang lại tiếng cười, niửm vui tuổi nhử, người thắp lên những hy vọng tương lai. Để rồi sau nà y khi lớn lên, bà lại là điểm tựa tinh thần vững chắc để mỗi khi chùng chân, mửi mệt trên đường hà nh quân phải đối mặt với bom rơi đạn nổ, giữa sự sống và cái chết mong manh.
Cháu chiến đấu hôm nay/Vì lòng yêu Tổ quốc /Vì xóm là ng thân thuộc /Bà ơi cũng vì bà /Vì tiếng gà cục tác /ử” trứng hồng tuổi thơ
Những câu thơ đong đầy xúc cảm, chứa đựng những triết lí nhân văn sâu sắc. Tình yêu quê hương đất nước xuất phát từ tình cảm gia đình, từ những kí ức tuổi thơ. Người cháu sẽ cầm chắc tay súng, chiến đấu anh dũng kiên cường để cho tiếng gà trưa mãi mãi được cất lên. Và mỗi khi nghe tiếng gà trưa là hình ảnh bà lại xuất hiện với biết bao tình cảm trìu mến, thân thương. Bà chính là quê hương, đất nước, là biểu tượng của lòng nhân ái bao la.
Xuân Quử³nh đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật đồng hiện, từ tiếng gà trưa đã gợi ra bao kí ức vử quá khứ êm đẹp, mộng mơ, trong sáng, thánh thiện; gợi vử thực tại của chiến tranh sặc mùi thuốc súng nhưng không thể giết được âm thanh đồng quê, âm thanh hòa bình. Đồng thời mở ra viễn cảnh tương lai đầy hy vọng vử tình bà cháu luôn tửa sáng, là động lực, sức mạnh xua tan những trở ngại, chông gai.
Khi nhà thơ Bằng Việt đang là lưu học sinh ở nước ngoà i, mỗi lần nhớ vử quê hương, đất nước, thi sĩ lại nhớ vử hình ảnh bếp lửa gắn với hình ảnh người bà thân thương "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa". Với lối thơ tự sự, mỗi dòng thơ là lời thủ thỉ tâm tình của người cháu đi xa nhớ vử bà với biết bao tình cảm sâu nặng, da diết, khôn nguôi. Hình ảnh bếp lửa cùng với hình ảnh bà cứ trở đi trở lại trong bà i như một nỗi ám ảnh của tình thương nỗi nhớ và lòng biết ơn sâu nặng. Bằng Việt đã tái hiện một cách rõ nét, sinh động khung cảnh của những năm chiến tranh và tình cảnh gia đình mình:
Năm ấy là năm đói mòn đói mửi,/Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy./Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu,/Nghĩ lại đến giử sống mũi còn cay
Hình ảnh bà trong thơ ca
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói, quen với hình ảnh bà mỗi sớm mai thức dậy nhóm bếp lửa chửn vửn sương sớm, nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm. Tuổi thơ tác giả qua đi bên hình ảnh người bà thức khuya dậy sớm, nhẫn nại, chịu khó chắt chiu dà nh dụm những gì tốt đẹp nhất cho cháu. Giử cháu đã khôn lớn đi xa, ở nơi đất khách quê người nhưng hình ảnh luôn thường trực trong trái tim với nỗi nhớ đong đầy niửm thương da diết. Dù cuộc sống hiện tại đủ đầy "Giử cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tà u / Có lửa trăm nhà , niửm vui trăm ngả" nhưng lòng dặn lòng không bao giử được quên quê hương, nguồn cội. Trong xa cách cả không gian, thời gian, người cháu lại cà ng cảm thấy thương bà hơn, thương vùng quê đói nghèo xơ xác, thương cuộc đời bà cô đơn, vất vả, mòn mửi, nhọc nhằn:
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc./Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà ,/Kêu chi hoà i trên những cánh đồng xa?
Viết vử bà , câu thơ của Bằng Việt như kéo dà i, ngân nga đưa người đọc vử với không gian của kí ức tình thương. Nhớ bà là nhớ những năm tháng cùng bà trải qua những gian khổ của chiến tranh, nhớ những câu chuyện tâm tình thuở nhử. Và trong kí ức xa xăm ấy vẫn hiện hình rõ nét khung cảnh xác xơ của là ng quê khi bom giặc dội xuống, tà n phá xóm là ng, trong đó có ngôi nhà thân thương của bà :
Năm giặc đốt là ng cháy tà n cháy rụi,/Hà ng xóm bốn bên trở vử lầm lụi,/Đỡ đần bà dựng lại túp lửu tranh./Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:/"Bố ở chiến khu bố còn việc bố,/Mà y có viết thư chớ kể nà y kể nọ,/Cứ bảo nhà vẫn được bình yên".
Hình ảnh bà mãi mãi là hình ảnh đẹp không hử phai nhòa trong kí ức. Bà chính là hiện thân của gia đình, quê hương, đất nước, người sẵn sà ng hy sinh đời mình để thắp lên những ngọn lửa kì diệu, thiêng liêng "à”i kử³ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!".
Viết vử bà , các nhà thơ thường dà nh những tình cảm sâu nặng với lòng biết ơn vô hạn. Nhưng quy luật của thời gian đời người thường nghiệt ngã. Lúc bé ta được bà chăm ẵm, vỗ vử, nuôi nấng khôn lớn, trưởng thà nh. Nhưng khi những đứa cháu lớn khôn, "thà nh người", muốn báo đửn công ơn dườ¡ng dục của bà thì bà không còn nữa. Nhà thơ Nguyễn Duy trong Đò Lèn đã thà nh thật nói lên quy luật giản đơn của muôn đời nhưng không mấy khi ta nhận ra:
khi tôi biết thương bà thì đã muộn/bà chỉ còn là một nấm cử thôi!
Câu thơ giản dị nhưng chứa đựng triết lí sâu sa, như một lời cảnh tỉnh, nhắc nhở mỗi chúng ta khi may mắn còn bà hãy cố gắng đáp đửn công ơn trời biển đó bằng cách sống thật tốt để không phụ lòng bà mong đợi. Bao trùm lên câu thơ của Nguyễn Duy là lời hối lỗi, sự ăn năn xúc động muộn mằn, một sự day dứt khôn nguôi vì thương nhớ bà vô hạn.
Đò Lèn sáng tác năm 1983 trong dịp nhà thơ trở vử quê hương sống với những hồi ức đan xen buồn vui thời thơ ấu. Mẹ Nguyễn Duy mất sớm, nhà thơ ở với bà ngoại từ nhử. Trong tâm hồn Nguyễn Duy, bà ngoại là hình ảnh gần gũi, thân thuộc nhất. Ngay cái tên nhan đử Đò Lèn, đã gợi ra trong tâm trí người đọc vử một vùng quê nghèo xứ Thanh, quê hương tác giả, nơi mà tuổi thơ Nguyễn Duy có những kỉ niệm ngọt ngà o vử bà yêu quý. Bà i thơ pha mà u tự sự trữ tình dẫn dắt người đọc vử với những kỉ niệm buồn vui của thời trẻ thơ nông nổi. Không cầu kì, gọt giũa, trau chuốt ngôn từ, câu thơ Nguyễn Duy như lời nói thường tái hiện một cách chi tiết những dấu mốc thời gian gắn với những kỉ niệm không bao giử quên:
Thuở nhử tôi ra cống Na câu cá/níu váy bà đi chợ Bình Lâm/bắt chim sẻ ở và nh tai tượng Phật/và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần.
Hình ảnh bà cháu bước thấp bước cao trên con đường đến chợ trong những năm tháng đói khổ, rồi những trò chơi tinh nghịch, tò mò của tuổi thơ dại gắn với những địa danh quen thuộc đã hằn sâu trong tâm trí tác giả. Và cái vô tư, hồn nhiên của tuổi thiếu thời đâu cảm nhận được nỗi vất vả, nhọc nhằn của bà : "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế / bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan / bà đi gánh chè xanh Ba Trại / Quán cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hà n".
Dù cuộc sống đói nghèo, gian khổ "cái năm đói, củ dong riửng luộc sượng" nhưng cảm giác được sống bên bà , được bà quý mến, chở che, đùm bọc, thắp lên trong tâm trí trẻ thơ những tình cảm trong sáng, thánh thiện, đó là niửm hạnh phúc lớn lao, cao cả "cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm". Để rồi mỗi khi nhớ vử bà là hình ảnh của một người chân chất mộc mạc, giản dị lại hiện ra. Bà không phải là Tiên Phật, thánh thần mà cái dáng thân cò lặn lội, thập thững những đêm hà n, bà đi bán trứng ở ga Lèn mãi là hình ảnh đẹp ám ảnh mãi trong suy nghĩ của người cháu vử một cuộc đời bình dị, thân thương.
Thơ Nguyễn Duy như muốn nhắc nhở người đọc hãy trân trọng, nâng niu những tình cảm đẹp đẽ, hãy dà nh những tình cảm tốt nhất cho người thân yêu trước khi quá muộn mà ng. Bà i thơ khép lại nhưng mở ra bao vấn đử vử lẽ sống, tình thương để những thế hệ sau sống tốt hơn, nhân ái hơn.
Hình ảnh bà mãi là hình ảnh đẹp, khơi nguồn sáng tạo cho thơ ca. Bao nhiêu sáng tác vử bà là bấy nhiêu những xúc cảm chân thà nh, tha thiết mà tác giả muốn bà y tử, kính dâng lên bà kính yêu. Bà chính là điểm tựa tinh thần, là dòng suối mát là nh, trắng trong nuôi dườ¡ng, nâng đỡ, chở che, ấp ủ, chắp cánh cho những ước mơ tuổi thơ dại. Những bà i thơ vử bà được viết lên bằng chính con tim tác giả, thể hiện lòng thà nh kính, tôn vinh, biết ơn bà sâu sắc bởi cuộc đời bà giống như những đóa sen hồng luôn tửa ngát hương thơm tô thắm cho đời.