Nguyễn Huy Tưởng nối dài vẻ đẹp Thăng Long
Chuyển động Hà Nội - Ngày đăng : 10:57, 19/04/2012
Cuộc tọa đà m Nguyễn Huy Tưởng với Hà Nội đã diễn ra tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam thu hút đông đảo các nhà văn, nhà nghiên cứu. Có 24 tham luận gửi tới, 13 tác phẩm đã trình bà y, khẳng định tầm vóc Nguyễn Huy Tưởng - một nhà văn lớn.
Đửu lấy bối cảnh Thăng Long
Đúng tháng Bảy, tháng tròn 50 năm ngà y mất của nhà văn, Nhà xuất bản Kim Đồng phát hà nh tiểu thuyết "An Tư" (1944), truyện phim "Lũy hoa" (1960). Chẳng cứ dịp kỷ niệm, năm nà o tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng (và cả của cụ Tô Hoà i) cũng tái bản. Biên độ giá trị tác phẩm với sự đa dạng thể loại, hấp dẫn độc giả nhiửu lứa tuổi. Cuốn "Hà Nội dấu xưa" 640 trang mà Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản đón Đại lễ 1.000 năm Thăng Long, hiển hiện văn tà i hiếm có của Nguyễn Huy Tưởng khi viết mảng đử tà i lịch sử. Các tác phẩm quan trọng nhất của ông: từ tùy bút, tiểu thuyết, kịch, truyện phim, cổ tích, truyện thiếu nhi đửu lấy bối cảnh Thăng Long, ký thác tấm lòng thiết tha gắn bó, tình yêu lớn lao cho Thăng Long-Hà Nội.
Người đọc hiểu vử Thăng Long từ thời An Dương Vương, tới thời Trần, Lê sơ, Lê mạt, cuộc kháng chiến chống Pháp bảo vệ Thủ đô thế kỷ 20 là nhử các tác phẩm của một người Hà Nội kiệt xuất - Nguyễn Huy Tưởng. "Hà Nội dấu xưa" là nhan đử cuốn sách sinh thời ông muốn viết, song bệnh ung thư gan mang ông đi ngà y 25/7/1960. Sau 50 năm, nhan đử ấy là tập hợp tác phẩm ông in trên Tri Tân (tạp chí chuyên khảo cứu lịch sử). Đó là hai tiểu luận viết cuối năm 1941: Hội nghị Diên Hồng, à nghĩa việc thiên đô của Lý Thái Tổ trong lịch sử Việt Nam. Tiểu thuyết "Đêm hội Long Trì" (1942), kịch "Vũ Như Tô" (năm hồi, 1943), "An Tư" (sau chuyển thể cải lương), "Những người ở lại" (kịch, 1948), "Lũy hoa," "Sống mãi với Thủ đô" (tiểu thuyết mới viết được một tập thì ông qua đời, được in năm 1961 nhử các bạn bè ông).
Bản tính hiửn từ, khiêm nhã, Nguyễn Huy Tưởng không nói gì vử mình. Chỉ khi con trai duy nhất của nhà văn - ông Nguyễn Huy Thắng công bố, thêm những bà i viết của các đồng nghiệp cùng thời ông, chúng ta mới biết Nguyễn Huy Tưởng lớn bởi chính ý thức từ thời đầu đời văn nghiệp. Đây là cốt lõi, chìa khóa giải mã lý tưởng văn chương, lẽ sống của ông.
Người viết lịch sử bằng văn chương
Kiến văn uyên bác vử lịch sử Thăng Long ngà n năm phô diễn sâu sắc và tầng lớp hà m ngôn, sinh động, lôi cuốn chúng ta hòa nhập và o không gian, bối cảnh của tác giả đến mức lườ¡ng phân: Không biết đâu là sáng tạo nhà văn, đâu là lịch sử. Tà i năng bậc thầy, sự tinh tế và tấm lòng tha thiết qua từng câu thoại, từng chi tiết, mỗi nhân vật hiển thị chan chứa lòng yêu nước, nhân cách, phẩm tiết tốt đẹp. Cho dẫu loạn ly, chiến tranh, hỗn cảnh nà o vẫn toát lộ và ngời sáng. Công chúng không chỉ được cung cấp kiến thức, dữ liệu mà nhìn thấy lịch sử dân tộc qua trục Thăng Long ở các thời kử³.
Giá trị tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng, cà ng qua thời gian cà ng vững chãi, một vị trí không thể thay thế. Viết, là m phim, kịch vử lịch sử Việt Nam rất khó. Nguyễn Huy Tưởng lao và o chỗ khó mà viết tiểu thuyết, truyện lịch sử sống động vô cùng. Nhân vật của ông hóa thân thà nh hiện thực lịch sử, kịch tính, nghịch cảnh dẫn tới tâm trạng, hà nh động. Văn sử bất phân là biệt tà i của nhà văn. May mà có Nguyễn Huy Tưởng, người viết lịch sử bằng văn chương (Đánh giá của nhà sử học Dương Trung Quốc). "Đêm hội Long Trì" là m phim, chuyển thể thà nh chèo, cải lương, đáng chú ý nhất là điện ảnh. Đạo diễn, nghệ sử¹ nhân dân Hải Ninh cùng nhà biên kịch Hoà ng Tích Chỉ năm 1989 đã viết kịch bản và đưa tiểu thuyết nà y lên mà n bạc.
Đây là một trong các tác phẩm xuất sắc nhất của điện ảnh Việt Nam. Năm 1995, đạo diễn Phạm Thị Thà nh dựng "Vũ Như Tô," một vở kịch chậm được in và dựng do nhiửu lý do. nghệ sử¹ nhân dân Phạm Thị Thà nh coi đây là một kiệt tác sân khấu, hai dòng sân sân khấu Đông - Tây kết hợp, lại có tầm triết lý cao vử cuộc đời, diễn tả qua tầng nhiửu lớp." Vở được diễn lại tại Nhà hát Lớn 26/7/2003. Tuổi 18, khát khao lập nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký 19/12/1930: Phận sự một người tầm thường như tôi muốn tử lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thôi và đến 16/6/1956: Một nghử nghiệp cao quý biết bao là nghử viết văn. Đưa lại cho đời một bó đuốc không to thì nhử. Có nghử nà o thú vị hơn nghử văn, nó lấy nguyên liệu chính là con người một cái gì đẹp nhất, toà n diện nhất, kử³ diệu nhất của sự sáng tạo?
Nhà Thăng Long học
Nguyễn Huy Tưởng không chỉ viết vử vẻ đẹp của kinh kử³ xa hoa, lộng lẫy, đầy ánh sáng, ông còn nhìn sâu và o những lầm than, cực nhọc của mảnh đất thông qua chính nó, qua những phận người. à”ng là nhà Thăng Long học." Bao hoà i niệm, hoà i bão của chủ thể sáng tạo biểu thị gợi cảm, đa nghĩa, ấn tượng bằng cái tôi - thiên chức nghệ sĩ, biến Hà Nội và lịch sử đất nà y thà nh chất liệu thẩm mử¹. Hà Nội tự hà o có một nhà văn như ông. Trân trọng và thân thương một con phố mang tên Nguyễn Huy Tưởng, phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân từ năm 1995. à”ng yêu Hà Nội, yêu những con người biết dám sống chết cho Hà Nội.
Một con người, một nhà văn Hà Nội. Bất cứ cái gì đụng đến Hà Nội hôm qua, hôm nay và ngà y mai, đửu khiến ông xúc động và lo lắng. Cái đất khốn khổ nà y cần chúng ta hiểu thêm để yêu thêm, ông đã nói vậy (Phạm Xuân Nguyên). Nguyễn Huy Tưởng sống mãi với Thủ đô, bởi những trang viết tuyệt vời thấm tình máu thịt. à”ng ra đi quá sớm. Nhưng những độc giả thế hệ sau sẽ còn đọc Nguyễn Huy Tưởng.
Chuyện hơn 2.000 năm trước An Dương Vương xây thà nh ốc, Trần Quốc Toản 16 tuổi bóp nát quả cam, quyết Sát Thát diệt giặc Nguyên, nhử mẹ thêu lá cử sáu chữ và ng Phá cường địch báo hoà ng ân," Kể truyện Quang Trung, hai anh em mồ côi Tìm mẹ, Con cóc là cậu ông giời ... tất cả còn in trí. Mỗi lần qua Dục Tú, Đông Anh, tôi lại nhớ ông.
Đây là quê hương Nguyễn Huy Tưởng, nơi xương cốt ông gửi lại từ 1989. Nghĩ vử ông, ngậm ngùi cho cuộc đời ngắn mà đồ sộ của ông, một người viết văn đầy cốt cách chí sĩ. Ai trong chúng ta đã đọc hết tác phẩm Nguyễn Huy Tưởng: 4.200 trang kịch và văn xuôi, 1.700 trang nhật ký? Giáo sư Phong Lê nhận định: Qua Nguyễn Huy Tưởng, hiện lên một hà nh trình của văn học Việt Nam hiện đại, tương ứng với lịch sử nhân dân, lịch sử dân tộc." Không chỉ tương ứng, mà còn tái hiện lớp lớp quá khứ, dự cảm tương lai./.