'Việt Nam đã chuyển thông điệp quan trọng qua Luật Biển'

Tin tức - Ngày đăng : 10:25, 26/06/2012

(NHN) "Chủ quyửn của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoà ng Sa và  Trường Sa tiếp tục được thể hiện rõ trong Luật Biển. Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng, tranh chấp liên quan đến biển đảo bằng các biện pháp hòa bình", Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh kh?ng định.

- Luật Biển Việt Nam vừa được Quốc hội thông qua ngà y 21/6. Bộ trưởng nói rõ vử mục đích và  ý nghĩa của văn bản luật nà y?

- Là  quốc gia ven biển, Việt Nam đã tham gia Công ước Liên Hợp Quốc vử Luật Biển năm 1982 từ năm 1994. Tuy nhiên, cho đến nay, Việt Nam chưa có một văn bản luật vử biển mà  chỉ mới có các quy định trong một số văn bản pháp quy liên quan.

Việc Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam là  một hoạt động lập pháp quan trọng nhằm hoà n thiện khuôn khổ pháp lý của nước ta, phục vụ cho việc sử­ dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và  phát triển kinh tế biển của Việt Nam, tạo điửu kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và  tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và  trên thế giới.

Với việc thông qua Luật Biển Việt Nam, lần đầu tiên nước ta có một văn bản luật quy định đầy đủ chế độ pháp lý của các vùng biển, đảo thuộc chủ quyửn và  quyửn chủ quyửn của Việt Nam theo đúng Công ước Liên Hợp Quốc vử Luật Biển năm 1982. Аây là  cơ sở pháp lý quan trọng để quản lý, bảo vệ và  phát triển kinh tế biển, đảo của nước ta.

Với bử biển dà i và  các vùng biển rộng lớn, kinh tế biển đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và  phát triển của ta. Việc xây dựng và  ban hà nh Luật Biển Việt Nam là  nhu cầu tất yếu nhằm phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam.

Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. Ảnh: Phan Lê
Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. Ảnh: Phan Lê

- Bộ trưởng cho biết khái quát vử quá trình xây dựng và  những nội dung chính trong Luật Biển Việt Nam?

- Quá trình xây dựng Luật Biển Việt Nam được bắt đầu từ năm 1998 và  đã trải qua 3 nhiệm kử³ Quốc hội các khóa X, XI, XII. Luật Biển Việt Nam là  một luật có nội dung rất lớn, liên quan đến nhiửu lĩnh vực, đòi hửi phải có sự chuẩn bị công phu, kử¹ lườ¡ng. Luật được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp, Nghị quyết của Quốc hội vử phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc vử Luật Biển năm 1982, các Tuyên bố của Chính phủ năm 1977 và  1982, tổng kết thực tiễn quản lý biển của nước ta, trên cơ sở Công ước Liên Hợp Quốc vử Luật Biển 1982 và  các Hiệp định vử biển đã ký. Trong quá trình xây dựng Luật Biển Việt Nam, ta cũng đã tham khảo thực tiễn của các nước và  cũng cân nhắc lợi ích của ta, lợi ích của các bên liên quan ở Biển Аông và  lợi ích chung của khu vực.

Luật có 7 chương đử cập đến các nội dung chủ yếu sau: các nguyên tắc, chính sách quản lý và  bảo vệ biển; phạm vi và  quy chế các vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyửn kinh tế, thửm lục địa; quy chế các đảo, quần đảo Việt Nam; các hoạt động trong vùng biển Việt Nam; tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ; bảo vệ tà i nguyên và  môi trường biển; nghiên cứu khoa học biển; phát triển kinh tế biển; tuần tra kiểm soát trên biển; hợp tác quốc tế vử biển.

- Luật Biển Việt Nam quy định như thế nà o vử chức năng nhiệm vụ quản lý biển của các bộ, ngà nh?

- Quản lý nhà  nước vử biển là  một lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến chức năng nhiệm vụ của nhiửu bộ, ngà nh và  địa phương trong cả nước. Hiện nay, phạm vi thẩm quyửn cũng như cơ chế phối hợp của các bộ, ngà nh, các lực lượng tham gia quản lý biển được quy định cụ thể trong các văn bản pháp quy liên quan và  được đặt dưới sự điửu hà nh thống nhất của Chính phủ.

Luật Biển Việt Nam là  một luật khung quy định các nguyên tắc lớn đối với các vấn đử liên quan đến biển nên không nêu cụ thể, chi tiết chức năng của từng bộ, ngà nh tham gia quản lý biển. Luật khẳng định Chính phủ thống nhất quản lý nhà  nước vử biển trong phạm vi cả nước. Các bộ, ngà nh và  địa phương thực hiện quản lý biển trong phạm vi nhiệm vụ, quyửn hạn của mình.

- Vấn đử chủ quyửn, quyửn chủ quyửn đối với các vùng biển, đảo được thể hiện thế nà o trong Luật Biển Việt Nam?

- Phù hợp với các quy định trong Công ước Liên Hợp Quốc vử Luật Biển năm 1982, Luật Biển Việt Nam quy định rất rõ các vùng biển của Việt Nam, bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyửn kinh tế và  thửm lục địa. Việt Nam thực hiện chủ quyửn đối với các vùng nội thủy và  lãnh hải; thực hiện quyửn chủ quyửn và  quyửn tà i phán quốc gia đối với vùng đặc quyửn kinh tế và  vùng thửm lục địa.

Chủ quyửn của Việt Nam đối với các đảo, trong đó có hai quần đảo Hoà ng Sa và  Trường Sa, đã được nêu tại một số quy định trong các văn bản luật đã có trước đây, như Luật Biên giới quốc gia năm 2003, tiếp tục được thể hiện rõ trong Luật Biển Việt Nam.

Luật quy định rõ là  mọi tổ chức, cá nhân phải tôn trọng chủ quyửn, toà n vẹn lãnh thổ, quyửn chủ quyửn, quyửn tà i phán quốc gia và  lợi ích của Việt Nam, tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam khi hoạt động trong các vùng biển của ta. Mọi vi phạm các quy định pháp luật liên quan đến biển, đảo của Việt Nam đửu bị xử­ lý theo pháp luật liên quan.

- Việt Nam còn có một số bất đồng, tranh chấp vử biển, đảo với một số nước láng giửng. Trong Luật Biển Việt Nam, vấn đử nà y được đử cập như thế nà o, thưa Bộ trưởng?

- Luật Biển Việt Nam quy định rõ Nhà  nước Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng, tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyửn và  toà n vẹn lãnh thổ quốc gia, phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc vử Luật Biển năm 1982, pháp luật và  thực tiễn quốc tế.

Аây là  chủ trương nhất quán của Nhà  nước ta. Chúng ta đã, đang và  sẽ kiên trì thực hiện chủ trương nà y. Trên thực tế, đến nay chúng ta đã giải quyết được một số tranh chấp với các nước láng giửng. Ví dụ năm 1997, ta cùng Thái Lan phân định vùng đặc quyửn kinh tế và  thửm lục địa; năm 2000, cùng Trung Quốc phân định lãnh hải, vùng đặc quyửn kinh tế và  thửm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ; năm 2003, cùng Indonesia phân định thửm lục địa...

Tôi cho rằng với việc Quốc hội nước ta thông qua Luật Biển Việt Nam, chúng ta đã chuyển một thông điệp quan trọng đến cộng đồng quốc tế. Аó là : Việt Nam là  một thà nh viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tôn trọng và  tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là  Công ước Liên Hợp Quốc vử Luật Biển năm 1982, phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và  phát triển của khu vực và  trên thế giới.

Chinhphu.vn