Thơ đương đại đang khủng hoảng?
Truyện - Ngày đăng : 10:15, 02/11/2012
Tại sao thơ đương đại có hiện tượng khủng hoảng? Chưa thấy những nhà thơ nổi bật, ít bà i thơ hay, thiếu nhiửu câu thơ đẹp đọng lại trong lòng công chúng? Thậm chí nhiửu nhà phê bình bức xúc, nói nặng lời vử thơ đương đại không phải không có chỗ đúng. Loại thơ - vè có chiửu hướng lan rộng; thơ - văn xuôi lủng củng với những đoạn thơ bà ng bạc, những ý thơ nhạt nhẽo, dễ dãi; thơ khó hiểu là m bạn đọc "nuốt không trôi", xa lánh... v.v... Đi tìm nguyên nhân của thực trạng trên của thơ đương đại, từ một hướng tiếp cận văn hóa đọc, tôi chọn ra mấy nội dung học thuật sau:
1.Mơ hồ vử lý tưởng xã hội của thơ ca.
Là m thơ là sáng tạo, là đam mê, có khi say nhiửu hơn tỉnh. Người cổ đại gọi nhà thơ là "nhà tiên tri". Các nhà thơ lớn thường nhận mình là "nhà thơ - công dân", là "tiếng dội" của cuộc sống, là hơi thở của thời đại. Muốn xứng đáng với danh hiệu đó, nhà thơ phải có tà i đã đà nh, nhưng trước hết phải có lý tưởng xã hội, phải dồn tích năng lượng, nhiệt huyết của mình để ngọn lửa cảm hứng sáng tạo luôn cháy sáng. Lý tưởng xã hội là mục đích cao nhất, là lẽ sống đẹp nhất của nhà thơ. Lý tưởng cần cho mọi người. à”ng vua không là m đúng lý tưởng của mình, thì dân có quyửn lật đổ. Sáng tạo, tự do mà không vì con người, không có mục tiêu thì chỉ là hư tưởng, vô dụng. Mươi năm gần đây, hiện tượng một số nhà thơ trẻ muốn nổi danh ngay, liên tiếp đưa ra những tuyên ngôn cao ngạo. Những câu thơ buông tuồng, thô thiển thỉnh thoảng xuất hiện trên các trang báo.
Ngà y xưa các nhà thơ lớn đã có lời răn: "Danh lợi, tước lộc thường đi đôi với vạ lớn" (La Ẩn - nhà thơ đời Đường trong bà i "Ngụ hoà i" có câu: "Danh lợi ngoà i thân chớ vội cầu/ Tước lộc có vui nhưng vạ lớn"). Văn chương, thơ ca là sự nghiệp của nghìn đời (văn chương thiên cổ sự). Nhà thơ là con ong khôn ngoan biết hút mật ở các loà i hoa vử xây tổ ấm cho thơ, cho cộng đồng, chứ không đi đốt bậy người đời, dễ bị người ta châm lửa, hun khói xua đuổi, có khi vỡ cả tổ. Nhà thơ có quyửn viết bất cứ đử tà i nà o, khai thác mọi nỗi niửm sâu kín của tâm trạng: nổi đau, niửm vui, hạnh phúc, bất hạnh ... nhưng khi bà i thơ được công bố thì nó không còn là của riêng nhà thơ mà của xã hội, là đối tượng cảm thụ của hà ng trăm nghìn thị hiếu khác nhau.
Khen - chê, chấp nhận - từ chối là chuyện của dư luận xã hội. Nhà thơ không vì được khen mà cao ngạo, bị chê mà chán nản. Hiệu ứng của sự khen - chê nằm ở tà i năng, trước hết là ở tấm lòng người viết, ở lý tưởng xã hội mà nhà thơ theo đuổi. Một số người cứ thiên kiến nghĩ rằng, lý tưởng xã hội là cái nằm ngoà i văn chương, do sự áp đặt của một tổ chức nà o đó. Không phải! Nó là bầu máu nóng, là cảm hứng chủ đạo của bất cứ nhà thơ nà o dù chỉ viết một dòng. Để khẳng định một thái độ sống, một nhà sinh quan được lý tưởng xã hội định hướng, Chế Lan Viên viết: "Ta đẻ ra đời, sao khửi những cơn đau/ Hãy biết ơn vị muối của Đời cho thơ chất mặn".
Quầy sách giảm giá cho khách mua thơ tại sân Văn Miếu trong Ngà y thơ Việt |
2. Cách tân, sáng tạo là quy luật tự nhiên, tự tại của thơ ca.
Cách tân không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện, là thao tác kỷ xảo, là sự tìm kiếm ý tưởng mới, hình tượng mới, ngôn từ lấp lánh. Sở dĩ ta gọi trường phái thơ 1932 - 1945 là THÆ MửšI là vì các nhà thơ rất có ý thức cách tân (nhử ảnh hưởng của giao lưu văn hóa đầu thế kỷ XX) là m xuất hiện nhiửu nhà thơ tà i hoa. Qui trình cách tân đưa thơ đến với số đông bạn đọc, nhất là thanh niên, học sinh. cũng không thể có thơ hay. Muốn cách tân gì thì cách, trước hết nhà thơ phải có tà i. Trong thơ ca, tà i năng là sự chân thật, chân thật tối đa. Ở đây nhà thơ và nhân vật trữ tình là một, trùng khít đến mức khó tách là m hai. Mọi thứ giả vử, là m dáng, cường điệu cảm xúc của người viết thật xa lạ với tính chân thật trong thơ. Có đau thì nói đau, nỗi đau của người trong cuộc. Có đủ kiến thức để khái quát câu thơ thà nh triết lý sống, thì cứ việc là m, chứ vay mượn sống sượng dù là của ai cũng không khó bị người đọc lật tẩy. Trong thơ đương đại, do tâm lý hấp tấp, hiện tượng "ăn non" quả chưa chín đã hái, nên vừa chát, vừa chua. Thông thường khi là m thơ, nhà thơ khó phân biệt đâu là trái tim, đâu là bộ óc, đâu là cảm xúc, đâu là trí tuệ, đâu là phi lý, đâu là hữu lý (đánh giá thơ không có chuyện đúng - sai, chỉ có hay - dở), nhưng khi bà i thơ ra đời, được đông đảo người đọc đón nhận là nhử hình tượng thơ mới - lạ, tình cảm nhà thơ thăng hoa, năng lượng tinh - khí - thần của bà i thơ tửa sáng. Trong thơ ca kháng chiến ở cả hai giai đoạn nhiửu bà i thơ viết vử đử tà i mất mát, bi thương, vử chia ly, mặc dù kử¹ thuật có chỗ chưa thật hoà n hảo, nhưng vẫn đọng lại sâu thẳm trong lòng người qua nhiửu thế hệ: "Mà u tím hoa sim", "Núi đôi", "Quê hương", "Hương thầm", "Cuộc chia ly mà u đử".. v.v... Viết vử đử tà i Tổ quốc, lãnh tụ, người phụ nữ Việt
Hiện nay, nhiửu bà i thơ được gọi là thơ - văn xuôi, nhưng đọc lên nghe sao lổn nhổn, lủng củng. Nếu là thơ thì ít ra là nhạc tính, nếu là văn xuôi là sức khái quát của văn tự sự. Khi cách tân thơ, một nhà thơ cảnh báo: Mỗi lần cách tân, thơ thường mở cửa và văn xuôi trà n và o. Có hiện tượng tà n phá của văn xuôi khi trà n và o thơ. Sự tà n phá đó đưa lại hệ lụy: Thơ mà không phải thơ. Ở chỗ nà y, tôi thấy nhận xét của nhà thơ Nguyễn Hữu Quý là đáng trân trọng: "Tôi nhận ra sự lặp lại, mòn cũ và ồn à o trong một số bà i thơ viết vử đất nước hiện nay. àt lắm những sáng tạo mới vử cấu trúc, hình tượng, ngôn từ. Thơ nghiêng vử sự ầm à o, cao giọng, tuyên truyửn cổ vũ mà không có câu hay, những ám ảnh lâu bửn. Thoạt nghe có vẻ mênh mông, hoà nh tráng, nhưng khi đọc kử¹ bằng mắt ta thấy vô và n sáo rỗng, cũ kử¹...".
3. Không có phông văn hóa, thiếu tri thức triết - mử¹, nhà thơ khó đi được xa .
Có nhà văn hóa nói, gốc của cây thơ là phù sa văn hóa, là tri thức của nhiửu lĩnh vực khoa học và là sự lịch duyệt, trải nghiệm. Nhà thơ mà chỉ dừng lại ở cảm xúc bà ng bạc, trí tuệ nông cạn, tầm tưởng tượng thiếu hụt... thì dễ dẫn đến tình trạng rối loạn hình tượng, nghèo nà n ngôn ngữ. Đó là chưa nói sự bắt chước vồ vập một và i khuynh hướng thơ hiện đại, hậu hiện đại của bên ngoà i. Giả dối là điửu tối kửµ trong nghệ thuật, rất tối kửµ trong thơ. Nói chuyện với các nhà thơ trẻ, M.Gorki đã phân biệt nhà thơ và người thợ thơ. Người thứ nhất luôn ý thức, phấn đấu nhọc nhằn để có tâm lý sự kiện, thân phận ngang trái của con người, chiửu sâu tình cảm, tính đa nghĩa, đa sắc của ngôn ngữ thơ; còn người thứ hai thường bằng lòng, dễ dãi trước nhiửu hiện tượng dồn dập của cuộc sống, sa đà và o lối liệt kê, chắp nối từ ngữ, thiếu vắng cảm hứng thi ca, nên thơ biến thà nh vè. Liên quan tới nội dung nà y, tôi nêu hai ý niệm vẻ đẹp câu thơ và cái mới trong thơ. Có nhà mử¹ học nói, mọi thể chế chính trị sẽ qua đi, câu thơ đẹp vẫn tồn tại mãi mãi. Điửu đó đúng khi cái Đẹp gắn liửn với cái Thiện. Nhà triết học Đức, E.Căng nói đại ý: Lý tưởng của chân lý là của Thượng đế, còn lý tưởng của cái Đẹp là của con người. Cái trước nằm ở giai đoạn "cảm thụ tự nhiên", còn cái sau là "cái phải trở nên".
Thơ gắn với Chân, Thiện, Mử¹ giống như thửi nam châm có sức hút, sức cảm hóa mọi thị hiếu, mọi người đọc ở nhiửu thời đại. Còn cái mới trong thơ tìm ở đâu? Tất nhiên không phải từ trên trời rơi xuống, cũng không phí công lục lọi trong đống phế loại từ ngoà i biên giới lọt và o, cà ng không phải vắt óc trần trụi nghĩ ra. Nó ở trong biển kiến thức mênh mông và sâu thẳm của loà i người. Nó có được là nhử tà i năng, tầm nhìn, sự định hướng sức bay của trí tưởng tượng (tưởng tượng thiếu định hướng dễ biến thà nh "con điên trong nhà "). Nhà thơ phải cậy học vấn. Xin đừng hiểu nhầm học vấn là bằng cấp, học vị, mà là thực học, thực tà i, trải nghiệm cuộc sống. Nhà thơ Pháp Ch. Beaudelaire rất quí trọng trường học đường đời: "Tôi có quá nhiửu kỷ niệm như thể đã sống nghìn năm để đòi hửi sự đọc". Còn Đổ Phủ: "Đọc thơ phú vạn quyển, hạ bút như hữu thần". Có thể có học vấn mà thơ không hay, nhưng có bà i thơ hay, câu thơ để đời thì nhà thơ có học vấn cao rồi đấy! Cha ông ta thường dạy: "Bản chất của văn chương tự học vấn mà ra, học vấn uyên bác thì văn viết mới hay. Có lẽ nà o văn chương lại là m cho người ta kiêu căng!?" (Lê Quí Đôn).
Trong biển cả tri thức khổng lồ của nhân loại, có cái vừa cao siêu, vừa thiết thực, vừa bổ ích, vừa vô bổ, việc đi tìm cái mới trong đời sống và trong nghệ thuật để ứng dụng và o lý thuyết thơ và sáng tạo thơ cũng phải liệu sức mình, giống như bơi trong biển cả; cần biết cách đọc, cách tiếp cận, chớ lóa mắt, tuyệt đối hóa một hiện tượng nà o, dù là thần tượng. Paul Bourjée cho rằng, nhà thơ cần phải biết các triết thuyết, tri thức xã hội học, tâm lý học mới nhất mà mình đọc được và cần theo đuổi "niửm say mê trí tuệ". Các nhà thơ trẻ cần giữ vững bản lĩnh khi tìm đến cái mới, cái lạ. Không phải cái mới, cái lạ nà o cũng đi tận cùng sáng tạo. Những dữ kiện nà o cần cho thơ? - Đó là sự săn đuổi những đử tà i xã hội và thân phận con người, tri thức cần và đủ cho cảm hứng, phản xạ, kho tà ng ngôn từ, kỷ xảo thơ (vần, âm luật, điệp âm, hình ảnh, văn khí...). Mọi thứ bắt chước kử³ quặc, thô kệch, mọi thứ suy nghĩ rối rắm, ngôn từ bệnh hoạn (mot malade) hiện tượng là m ô nhiễm ngôn ngữ, cách diễn đạt rắc rối, gượng gạo, vử vĩnh vử đử tà i tình dục, tình yêu nam nữ đửu xa lạ với thơ đương đại và hệ lụy là bạn đọc xa lánh