Giáo sư Trần Văn Khê và những dấu ấn về Hà Nội
Chuyển động Hà Nội - Ngày đăng : 15:38, 20/11/2012
- Lần đầu tiên giáo sư ra Hà Nội là bao giử và cảm nhận của ông thế nà o?
- Đó là năm 1938, khi tôi là một cậu học trò của trường Trương Vĩnh Ký (TP Hồ Chí Minh). Nhử học giửi nên tôi được trường thưởng một chuyến tham quan đi khắp miửn đất nước. Ngà y đầu đặt chân ra Hà Nội thấy ở đây khí hậu thật khác lạ. Người Hà Nội ăn mặc thanh lịch. Con gái Hà Nội cười duyên, mặt hoa da phấn chứ không ngăm đen mà u bánh ít như con gái miửn Nam.
Đặc biệt, Văn Miếu- Quốc Tử Giám đã để lại cho tôi nhiửu ấn tượng vử văn hóa dân tộc. Đến năm 1941, tôi được ra Hà Nội học Đại học Y. Người miửn Bắc ăn mặc thay đổi theo mùa nhưng lúc đó nhà tôi nghèo nên ngà y đi chỉ có thể mua hai bộ đồ mặc mùa hè, mùa thu thêm cái áo khoác mùa đông.
Giáo sư Trần Văn Khê nghe nghệ sĩ Hải Phượng đà n tranh. |
- Thưa giáo sư, có phải những năm tháng học tại Hà Nội là dấu ấn quan trọng trong việc truyửn bá nhạc dân tộc Việt Nam sau nà y?
- Tôi sinh ra trong gia đình 4 đời là m nhạc sĩ, từ nhử đã tiếp xúc với âm nhạc. Học y tại Hà Nội, tôi tham gia hội cùng các nhạc sĩ: Lưu Hữu Phước, Huử³nh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ. Lúc đó trong trường, người Pháp chỉ huy dà n nhạc sinh viên bị bệnh xin nghỉ nên tôi được cử là m chỉ huy. Năm 20 tuổi, tôi được đứng trên sân khấu Nhà hát Lớn Hà Nội chỉ huy dà n nhạc tiếng Pháp, để sau đó giới thiệu chương trình dân ca ba miửn. à thức giới thiệu nhạc dân tộc ra thế giới có trong tôi từ ngà y đó. Năm 1944, nhóm nhạc của tôi xin nghỉ 6 tháng để và o miửn Nam lập gánh hát. Sau 6 tháng trở lại Hà Nội thì có phong trà o xếp bút nghiên vử Nam kháng chiến, tôi lại quay vử Nam cùng gánh nhạc đi khắp nơi giới thiệu nhạc kịch sinh viên. Đến khi tôi bị Pháp truy lùng phải chạy trốn. Sau đó tôi tìm cách qua Pháp để học tiếp.
- Hòa bình lập lại, năm 1976 lần đầu tiên trở vử nước mà nơi đặt chân đầu tiên là Hà Nội, giáo sư cảm nhận ra sao?
- Lúc đầu tôi chỉ định ra nước ngoà i hai năm cho tình hình tạm lắng lại vử nước, nhưng biến cố cuộc đời buộc phải xa quê hương quá lâu. Khi đất nước thống nhất, UNESCO đử nghị sẽ tà i trợ để tôi trở vử quê hương ghi âm đĩa hát Việt Nam. Với nung nấu muốn quảng bá âm nhạc nước nhà từ trước nên tôi đã đồng ý ngay. Tha hương thấm thoắt 30 năm, ngà y trở vử, tôi thực sự bất ngử trước một Hà Nội hoà n toà n khác lạ, trước kia còn là thuộc địa thì bây giử tất cả đửu là người Việt Nam là m chủ. Ngà y trở vử, Thủ đô còn nghèo lắm bởi tất cả phải hy sinh cho cuộc kháng chiến. Đi xa khi đất nước trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mử¹ ác liệt, ngà y trở vử, tôi như nghẹn lại khi tận mắt nhìn những vết tích chiến tranh với những hố bom, chiến hà o dọc đầy đường lộ...
- Giáo sư đã thực hiện đĩa hát để truyửn bá nhạc Việt Nam ra thế giới như thế nà o từ cuộc trở vử nà y?
- UNESCO tà i trợ cho tôi vử nước với điửu kiện ghi được cho họ một đĩa hát vử âm nhạc dân tộc Việt Nam. Trong thời gian hơn một tháng tại Hà Nội, tôi là m việc với Hội Nhạc sĩ xin ghi đĩa âm nhạc. Thời đó cả Hà Nội không có lấy một phòng ghi âm, tôi đã thể nghiệm ghi âm trong phòng của Hội Nhạc sĩ nhưng tạp âm rất nhiửu nên công việc tưởng chừng không thực hiện được. May mắn thay, Đà i Tiếng nói Việt Nam mời tôi nói chuyện ba buổi và định trả thù lao bằng bức tranh sơn mà i. Tôi đã từ chối và xin đổi bằng ba buổi được thu âm chương trình là m đĩa hát tại đà i và họ đồng ý. Nhử vậy tôi đã hoà n thà nh được 3 đĩa hát vử ca trù, quan họ và hát chèo. Các đĩa được dán nhãn hiệu UNESCO và hơn 400 đĩa hát được gửi cho các trường đại học, trung tâm văn hóa tại Mử¹. Từ đó mỗi năm, Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp đã tà i trợ cho tôi vử nước mỗi năm hai tháng. Trong mười mấy năm sau đó tôi đi khắp ba miửn Bắc - Trung - Nam để thực hiện nghiên cứu giới thiệu âm nhạc dân tộc.
- Là một người có công lao truyửn bá âm nhạc truyửn thống Việt Nam khắp thế giới, giáo sư có điửu gì trăn trở trước thực trạng âm nhạc hiện nay?
- à‚m nhạc truyửn thống dần mai một, đó là điửu đáng buồn! Vậy nên tôi mong muốn âm nhạc và o học đường nhiửu hơn, không phải để dạy con người Việt Nam thà nh nhà nghiên cứu, thà nh nhạc sĩ mà để học sinh, sinh viên biết được âm nhạc truyửn thống Việt Nam có cái gì, phải bảo tồn nó như thế nà o? Thế nên từ năm 2002 tôi vử nước định cư và mang toà n bộ sách nghiên cứu hơn 50 năm để thực hiện ý nguyện nà y. Bây giử, tôi đã 93 tuổi, chỉ mong một điửu, khi mất đi thì ngôi nhà của tôi sẽ trở thà nh thư viện để mọi người có thể tìm hiểu tà i liệu vử âm nhạc dân tộc. - Cảm ơn giáo sư, nhân Ngà y Nhà giáo Việt Nam xin kính chúc ông khửe mạnh!
- Tôi sinh ra trong gia đình 4 đời là m nhạc sĩ, từ nhử đã tiếp xúc với âm nhạc. Học y tại Hà Nội, tôi tham gia hội cùng các nhạc sĩ: Lưu Hữu Phước, Huử³nh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ. Lúc đó trong trường, người Pháp chỉ huy dà n nhạc sinh viên bị bệnh xin nghỉ nên tôi được cử là m chỉ huy. Năm 20 tuổi, tôi được đứng trên sân khấu Nhà hát Lớn Hà Nội chỉ huy dà n nhạc tiếng Pháp, để sau đó giới thiệu chương trình dân ca ba miửn. à thức giới thiệu nhạc dân tộc ra thế giới có trong tôi từ ngà y đó. Năm 1944, nhóm nhạc của tôi xin nghỉ 6 tháng để và o miửn Nam lập gánh hát. Sau 6 tháng trở lại Hà Nội thì có phong trà o xếp bút nghiên vử Nam kháng chiến, tôi lại quay vử Nam cùng gánh nhạc đi khắp nơi giới thiệu nhạc kịch sinh viên. Đến khi tôi bị Pháp truy lùng phải chạy trốn. Sau đó tôi tìm cách qua Pháp để học tiếp.
- Lúc đầu tôi chỉ định ra nước ngoà i hai năm cho tình hình tạm lắng lại vử nước, nhưng biến cố cuộc đời buộc phải xa quê hương quá lâu. Khi đất nước thống nhất, UNESCO đử nghị sẽ tà i trợ để tôi trở vử quê hương ghi âm đĩa hát Việt Nam. Với nung nấu muốn quảng bá âm nhạc nước nhà từ trước nên tôi đã đồng ý ngay. Tha hương thấm thoắt 30 năm, ngà y trở vử, tôi thực sự bất ngử trước một Hà Nội hoà n toà n khác lạ, trước kia còn là thuộc địa thì bây giử tất cả đửu là người Việt Nam là m chủ. Ngà y trở vử, Thủ đô còn nghèo lắm bởi tất cả phải hy sinh cho cuộc kháng chiến. Đi xa khi đất nước trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mử¹ ác liệt, ngà y trở vử, tôi như nghẹn lại khi tận mắt nhìn những vết tích chiến tranh với những hố bom, chiến hà o dọc đầy đường lộ...
- UNESCO tà i trợ cho tôi vử nước với điửu kiện ghi được cho họ một đĩa hát vử âm nhạc dân tộc Việt Nam. Trong thời gian hơn một tháng tại Hà Nội, tôi là m việc với Hội Nhạc sĩ xin ghi đĩa âm nhạc. Thời đó cả Hà Nội không có lấy một phòng ghi âm, tôi đã thể nghiệm ghi âm trong phòng của Hội Nhạc sĩ nhưng tạp âm rất nhiửu nên công việc tưởng chừng không thực hiện được. May mắn thay, Đà i Tiếng nói Việt Nam mời tôi nói chuyện ba buổi và định trả thù lao bằng bức tranh sơn mà i. Tôi đã từ chối và xin đổi bằng ba buổi được thu âm chương trình là m đĩa hát tại đà i và họ đồng ý. Nhử vậy tôi đã hoà n thà nh được 3 đĩa hát vử ca trù, quan họ và hát chèo. Các đĩa được dán nhãn hiệu UNESCO và hơn 400 đĩa hát được gửi cho các trường đại học, trung tâm văn hóa tại Mử¹. Từ đó mỗi năm, Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp đã tà i trợ cho tôi vử nước mỗi năm hai tháng. Trong mười mấy năm sau đó tôi đi khắp ba miửn Bắc - Trung - Nam để thực hiện nghiên cứu giới thiệu âm nhạc dân tộc.
- à‚m nhạc truyửn thống dần mai một, đó là điửu đáng buồn! Vậy nên tôi mong muốn âm nhạc và o học đường nhiửu hơn, không phải để dạy con người Việt Nam thà nh nhà nghiên cứu, thà nh nhạc sĩ mà để học sinh, sinh viên biết được âm nhạc truyửn thống Việt Nam có cái gì, phải bảo tồn nó như thế nà o?
Thế nên từ năm 2002 tôi vử nước định cư và mang toà n bộ sách nghiên cứu hơn 50 năm để thực hiện ý nguyện nà y. Bây giử, tôi đã 93 tuổi, chỉ mong một điửu, khi mất đi thì ngôi nhà của tôi sẽ trở thà nh thư viện để mọi người có thể tìm hiểu tà i liệu vử âm nhạc dân tộc.