NSND Trà Giang: Mối tình đầu tiên và mối tình cuối cùng
Mỹ thuật - Nhiếp ảnh - Ngày đăng : 18:27, 03/01/2013
"Yêu và lấy nghệ sĩ, anh ấy phải đối diện với nhiửu điửu ra tiếng và o, kể cả những đồn đại trong giới nghệ sĩ. Nhiửu người hửi anh, có ghen không? Ai mà không ghen, nhưng đã xác định vợ là nghệ sĩ rồi mà . Tôi đã được gặp một người chồng bao dung, đức độ và thương vợ hết lòng", NSND Trà Giang chia sẻ.
Trở lại Sà i Gòn dịp nà y, chúng tôi gặp nhau trong nước mắt khi cha của bà qua đời. NSND Trà Giang là con gái của NSƯT Nguyễn Văn Khánh. Theo cha ra Bắc tập kết, Trà Giang đã từng lên sân khấu biểu diễn. Bà đã có ý định thi tuyển diễn viên múa và cải lương. Nhưng sau nà y, Điện ảnh đã chọn Trà Giang và cho bà nhiửu vai diễn để đời. Tôi gom nhặt những câu chuyện để tặng bạn đọc bà i viết nà y, cũng là cách tri ân với người phụ nữ mà tôi rất kính trọng trong đời là m báo của mình.
- Cái tên Trà Giang đã có từ khi nà o, thưa bà ?
- Cái tên nà y đã có từ lúc tôi sinh ra và o năm 1942. Quê ba tôi ở Quảng Ngãi có con sông Trà Khúc. Ba lấy mẹ là người Phan Thiết. Tôi sinh ra ở Phan Thiết và cả 6 anh chị em tôi đửu được ba mẹ đặt tên vử quê hương Quảng Ngãi. Anh lớn là Ấn Sơn (núi Thiên Ấn), rồi đến Trà Giang, Bút Sơn, Thạch Bích... Tình yêu quê hương của ba đã truyửn lửa cho chúng tôi luôn hướng vử quê hương mình.
- Xem lại phim Chị Tư Hậu, có cảm giác tuổi 20 của thế hệ hôm nay không chững chạc như thế hệ của bà ?
- Không biết có phải tôi già trước tuổi không, nhưng xem lại phim ấy cũng thấy mình già dặn quá. Tôi nhận vai Tư Hậu lúc 20 tuổi. Hồi nhử, tôi đã từng theo ba mẹ lên vùng kháng chiến, rất gian khổ, nhìn những trận Tây đưa quân đi cà n, bắn giết nhân dân. Cảnh ba tôi đi hoạt động, má tôi bị bắt. Tôi cảm nhận được những điửu có trong kịch bản và sống thật với tình cảm nhân vật. Tự tổng kết cuộc đời diễn viên của mình, trong các nhân vật mình đóng, từ vai Kiên trong phim Một ngà y đầu thu, vai người phụ nữ công giáo không tiến bộ, rất an phận, ghen khi chồng đi hoạt động Cách mạng, đến vai Tư Hậu, nhân vật của tôi đã tiến lên một bước nữa, tầm nhân vật đã phát triển. Giử đây khi được xem lại phim Chị Tư Hậu, tôi vẫn rất xúc động vì đạo diễn Phạm Kử³ Nam và anh Khánh Dư đã mất rồi. Bác Ba Du và nhiửu người trong phim không còn nữa. Trở vử kỷ niệm một thời trẻ của chúng tôi, thấy tự hà o và nhớ mãi...
- Là người phụ nữ có đôi mắt to, đen sâu thẳm, diễn bằng nội tâm, trong các phim Ngà y lễ thánh, Chị Tư Hậu, Vĩ tuyến 17 ngà y và đêm, khán giả luôn nhìn thấy trong đôi mắt ấy nỗi đau thương và lòng uất hận, chan chứa cả những khát khao hạnh phúc. Bà có nghĩ rằng, đôi mắt là một lợi thế đặc biệt giúp bà thể hiện thà nh công các vai diễn của mình?
- Tôi không nghĩ mình có đôi mắt đẹp. Tôi chỉ nghĩ là , trong nghử diễn viên điện ảnh, đôi mắt là quan trọng nhất, thể hiện được tình cảm của nhân vật. Không hiểu sao đôi mắt của tôi nói được những điửu khán giả cảm nhận. Tôi luôn trân quí tình cảm nơi người hâm mộ dà nh cho mình suốt những năm tháng qua.
- Bà là người hạnh phúc và may mắn khi được sống cùng thời với nhân vật. Hãy kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện là m phim đáng nhớ?
- Trong thời kử³ là m phim Vĩ tuyến 17 ngà y và đêm, chúng tôi đóng phim ở vùng Vĩnh Linh, gặp một đoà n du kích ban ngà y ra nghỉ ngơi tập luyện, ban đêm vượt sông tuyến và o Nam chiến đấu. Trong những người tôi gặp để ghi chép cho nhân vật của mình, đó là o Thảo. Cuộc gặp gỡ ghi mãi dấu ấn trong tim tôi để tạo nên thà nh công cho vai Dịu. Sau nà y, và o năm 1999, đi Liên hoan Phim ở Huế, tôi và đạo diễn Hải Ninh trở vử Gio Linh, Gio Thủy tay cầm ảnh o Thảo trên tay, mong gặp lại bà . Đến trước cơ quan Huyện ủy Gio Linh, mọi người ồ lên khi nhận ra người trong ảnh. Chúng tôi mừng lắm, và theo một đồng chí Huyện ủy lên xe vử gia đình và biết được o Thảo đã hy sinh năm 1972. Cuộc gặp gỡ rất cảm động. Tôi và người chị dâu, em trai của o Thảo ôm nhau khóc. Chính tôi cũng không ngử, khi bộ phim hoà n thà nh thì o Thảo đã hy sinh ở chiến trường Miửn Nam. Những cuộc gặp gỡ như thế cứ là m cho ký ức trà o vử, hiển hiện những khuôn mặt người rám nắng, hanh hao và phảng phất nỗi buồn chiến tranh hằn lên trên nếp nhăn của họ.
Chúng tôi lấy việc đi thực tế là một hạnh phúc rất lớn. Trước tôi có chị Mai Châu, chị Đức Hoà n đửu lên sống với người dân tộc Mèo, và sau đó khi ra trường, chúng tôi nối tiếp các chị. Phim nà o chúng tôi cũng đửu đi thực tế cả. Phim Lửa rừng lên vùng Ken Đu, vùng giáp ranh với Là o, không có đường ô tô, leo núi và lội suối 3 ngà y đi bộ, đến ở với đồng bà o, xem phong tục tập quán của đồng bà o. Cứ có điửu kiện là chúng tôi đi thực tế. Hồi ấy chúng tôi luôn có thái độ là m việc nghiêm túc.
Liên hoan Phim Mátxcơva năm 1973, có một nhà báo Mử¹ đến gặp tôi. Tôi rất ngại, ngại họ có thiện chí hay không? Nhà báo nói thấy xấu hổ khi người Mử¹ gây đau thương cho dân tộc Việt Nam. Nhà báo hửi: Trong phim thì như vậy, liệu ngoà i đời có như thế không? Tôi trả lời, ở nước tôi, giặc đến nhà , đà n bà cũng đánh. Chị àšt Tịch còn nói đánh giặc đến khi còn cái lai quần cũng đánh! Tôi mặc bộ áo dà i dân tộc. Người phiên dịch không hiểu lai quần là gì. Tôi chỉ gấu quần phía dưới, nữ nhà báo Mử¹ cười...
- Suy nghĩ của bà vử nửn điện ảnh Việt Nam hôm nay?
- Thế hệ diễn viên của tôi gặt hái được một số thà nh công, cố gắng hết sức của mình để diễn đạt cuộc sống của nhân dân trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Điện ảnh hôm nay, một người, một số người tâm huyết thôi chưa đủ. Hồi đó là cả một tập thể lớn luôn vì một nửn điện ảnh dân tộc, vì nhau, trân trọng nhau và luôn quên mình.
Chúng tôi mừng và kử³ vọng nhiửu và o các bạn nghệ sĩ trẻ hôm nay, họ sẽ thay thế xứng đáng lớp đà n anh.
- Từ năm 1990, bà không đóng phim nữa và đã từng đứng trên bục giảng. Nhưng chưa được bao lâu, bà nghỉ dạy và chuyển công tác vử Viện Tư liệu phim. Vì sao bà không theo nghiệp giảng dạy như ba mình?
- Đó là bi kịch của tôi. Khi vử Trường Điện ảnh, máu là m phim còn đeo đẳng. Tôi muốn được đi nhiửu hơn và giao du với bạn bè. Tôi không kiên trì trong việc dạy dỗ vì khả năng sư phạm không có, và tôi thấy các em thích đi là m phim hơn và thích trở thà nh người nổi tiếng hơn là đến lớp trả bà i cho thầy và xây dựng các tiểu phẩm. Tự tôi chán mình và bử cuộc. Đó là nhược điểm lớn nhất trong đời nghệ sĩ của tôi.
- Những kỷ niệm nà o là dấu ấn nhất của bà với ba mình?
- Hồi tập kết ra Bắc cùng gia đình, chính ba tôi đã báo rằng sắp có một đoà n chuyên gia Liên Xô tuyển diễn viên điện ảnh. Tôi nghe lời ông đi thi và cũng rất tự tin khi đóng tiểu phẩm. Thực ra trước đó, mỗi lần ông dà n dựng vở diễn Epghênhi à”nêgin, tôi đã học được rất nhiửu từ đọc thơ, diễn kịch và hát. Tiểu phẩm hôm thi tuyển diễn viên của tôi còn nhớ mãi là lấy bà n tay là m gương trang điểm. Ảnh tôi mang đi thi do chính tay ba chụp hình con gái. à”ng mong cho tôi theo nghiệp nghệ thuật của cha và mong muốn con hơn cha là nhà có phúc. Sau nà y, khi sinh Bích Trà được 3 tháng, chính ông là người động viên tôi đi Liên hoan phim Quốc tế Matxcơva. Sau Hiệp định Paris được ký kết, cha tôi đã lấy những sợi dây điện Mac Namara nhiửu mà u tết thà nh giử xách tặng con gái để gửi tặng bạn bè. Lần sang Liên Xô dự Liên hoan phim, tôi đã tặng món quà ấy của ba cho một nhà báo Mử¹. Đó là món quà có ý nghĩa nhất dà nh tặng cho khán giả của Liên hoan phim và người bên kia chiến tuyến. Tôi hà i lòng khi chọn nghử diễn viên không phải mang lại cho mình sự nổi tiếng, mà nghử nà y đã đưa tôi đến nhiửu cuộc đời. Hà ng ngà y chăm sóc ông mà tôi vẫn ứa nước mắt vì quá thương yêu ba, vì sự nghiệp điện ảnh 40 năm qua của tôi luôn có ông ở đằng sau. Gia đình tôi có Trà Giang, Bích Trà và cháu gái Hồng Anh là nối nghiệp nghệ thuật của ba. Có một lần ông gọi riêng tôi và o phòng và đưa tiửn nói mua một sợi dây chuyửn thật đẹp để tặng cháu ngoại Bích Trà . à”ng yêu nó và mong sự nghiệp của con gái tôi vẫn sẽ tiếp tục tốt đẹp hơn. Bích Trà đã luôn là m ông ngoại hà i lòng trong những lần trở vử lưu diễn tại Việt Nam.
- Có một điửu nà y mà ít ai hiểu được là tôi ở cùng ba mẹ ruột và chăm ông bà đến khi các cụ lần lượt qua đời, mẹ tôi mất lúc 92 tuổi, 2 năm sau bố cũng theo mẹ vử với tổ tiên. Bích Trà mỗi năm cũng thu xếp lịch vử Việt Nam biểu diễn và ở nhà với tôi khoảng 2 tuần. Có lẽ là hơn 10 năm qua, ít khi tôi hửi chuyện riêng của con, mặc dù trong lòng vẫn mong tin và lo lắng cho nó.
Tôi sinh được duy nhất một người con gái là Bích Trà , ghép tên đệm của mẹ và cha. Người ta nói sinh con một khó ngoan vì nó được nuông chiửu. Tôi nuôi con như bao bà mẹ khác, dạy dỗ con sống khửe mạnh và thương yêu mọi người, hướng cho con học hà nh chăm ngoan. May là Bích Trà rất thương yêu bố mẹ và ông bà . 14 tuổi Bích Trà sang Nga học tập, Trà đã viết thư vử nhà cảm ơn ba mẹ đã dạy con nhân cách sống. 14 tuổi cháu đã biết nghĩ như thế. Liên Xô tan rã, sinh viên Việt Nam gặp khó khăn nhưng các giáo sư vẫn dạy dỗ tận tình và hướng cho con học tiếp ở Học viện Hoà ng gia London. Những lần trở vử nhà của Trà thật ngắn ngủi. Ban ngà y con tranh thủ tập đà n, mẹ sang phòng vẽ. Ngà y cuối tuần, cả nhà cùng đi viếng mộ. Khi anh Bích Ngọc còn sống, có lần con gái yêu tựa và o bử vai tôi hửi nhử: Mẹ có thích con lấy chồng không?. Tôi chỉ cười: Chịu khó học đã, chuyện đó tính sau. Sau nà y, những lần vử nước bị hửi hoà i chuyện lấy chồng, Bích Trà cười tươi như hoa nói với mẹ: Mẹ à , sao mỗi lần gặp con, mọi người đửu cùng chung một câu hửi: Trà , bao giử cho bác ăn kẹo? Mẹ mua kẹo sẵn để trong nhà mời các bác nhé!. Tôi biết con luôn muốn là m mẹ vui, kể cả trong câu chuyện kể vử nó. Tôi không giục giã chuyện nà y, vì chính mình đã luôn khuyên nó học, mà hình như nó đang muốn học suốt đời... Học, như thể thấy luôn bị thiếu các tri thức âm nhạc hà n lâm trên thế giới. Tôi luôn tôn trọng con gái mà không bao giử thấy có sự hy sinh ở đây. Anh Bích Ngọc đã đi xa 13 năm rồi và Bích Trà đã theo nghiệp đà n của bố. Thời bao cấp, nhà nghèo nhưng chúng tôi cũng dà nh dụm tiửn mua đà n piano cho con, nhắc nhở con học hà nh đến nơi đến chốn và không được lùi bước. Chỉ tiếc là anh Bích Ngọc đã không được chứng kiến thà nh quả của Bích Trà sau 26 năm xa Tổ quốc và lập nghiệp nơi đất khách, không tận hưởng được hạnh phúc mà anh ấy luôn mơ vử con gái mình...
- Khán giả yêu điện ảnh luôn gặp lại bà trên mà n ảnh, trong các kử³ họp Quốc hội hoặc trên hà ng ghế giám khảo các kử³ thi hoa hậu. Bà thấy những công việc nà y có phù hợp với mình không?
- Đấy là sự tín nhiệm của Chính phủ và của Ban tổ chức các cuộc thi sắc đẹp. Tôi thấy những việc nà y mình đã tham gia vì sự tín nhiệm ấy và tròn vai.
- Đã rất lâu rồi bà không đóng phim?
- Tôi chủ động không tham gia phim ảnh nữa do không theo kịp điện ảnh thời đổi mới. Đó là quyết định đúng đắn. Tôi biết tự cân bằng cuộc sống cho mình và đến với hội họa. Tôi tìm vử mà u sắc trong những bức vẽ hoa để là m vui cho mình. Lớp học vẽ của những người bạn lớn tuổi đã xích chúng tôi lại gần nhau hơn, thấy yêu cuộc đời hơn và muốn sống vì nhau. Năm 1999 là một năm bi kịch của đời tôi khi anh Bích Ngọc ra đi đột ngột. Tôi cũng tránh tham gia các sự kiện, phim ảnh và vùi mình bên giá vẽ. Tôi vẽ liên tục và cũng tham gia triển lãm tranh cùng bạn bè, với nhóm Hương cử. Có nhiửu bức vẽ đẹp đã được người thân đặt mua với giá tình thân như tiếp thêm sức mạnh cho tôi đến với niửm đam mê mới.
Dừng cuộc chơi điện ảnh, tôi vẫn chưa thanh thản vì không nghĩ mình đã dừng lại. Tôi rất nhớ nghử, 20 năm không được diễn là nỗi đau rất lớn trong cuộc đời tôi.
- Thế hệ nghệ sĩ điện ảnh của bà và kể cả Khóa 2 sau nà y như Phương Thanh, Minh Châu, Thanh Quí... ít có tai tiếng dính líu đến xìcăngđan. Khán giả yêu điện ảnh ngườ¡ng mộ cái tên Trà Giang như một viên ngọc sáng của một thời gắn liửn với điện ảnh Cách mạng, nhưng vẫn muốn có một chút tò mò vử chuyện riêng của bà , chuyện mối tình đầu, chuyện với Giáo sư Bích Ngọc? Nếu được cho phép bà có điửu gì muốn tâm sự không?
- Trong chuyện tình cảm của tôi thời con gái, ba cũng mong muốn tôi lấy người Miửn Nam để trở lại Sà i Gòn. Những anh chà ng người Nam lăm le đến nhà , bao giử ông cũng khoái hơn và vui ra mặt. Chuyện của tôi với anh Bích Ngọc như thế nà y, anh của anh ấy là nhà văn Nguyễn Thà nh Long có quen biết gia đình tôi và chúng tôi tìm hiểu nhau. Hồi ấy, tôi 25 tuổi, anh Ngọc 27 tuổi. Sau nà y, tôi đã cảm nhận một cách sâu sắc rằng, tôi đã gặp may khi lấy được anh ấy. Khi chồng tôi còn sống, tôi đã nói lên điửu nà y với anh bởi tấm lòng, sự hiểu biết và sự hy sinh mà anh ấy dà nh cho mình. Yêu và lấy nghệ sĩ, anh ấy phải đối diện với nhiửu điửu ra tiếng và o, kể cả những đồn đại trong giới nghệ sĩ. Nhiửu người hửi anh, có ghen không? Ai mà không ghen, nhưng đã xác định vợ là nghệ sĩ rồi mà . Tôi đã được gặp một người chồng bao dung, đức độ và thương vợ hết lòng.
- Giáo sư Bích Ngọc có phải là mối tình đầu của bà không?
- Đó là mối tình đầu và là mối tình lớn trong cuộc đời tôi.
Kỷ niệm đáng nhớ nhất với anh Bích Ngọc là tự anh cho con gái Bích Trà bú bình trong suốt một tuần lễ khi cháu mới ba tháng tuổi để tôi đi dự LHP Điện ảnh tại Mátxcơva.
- Nhưng sau nà y, ở những cuộc gặp mặt của anh em nghệ sĩ điện ảnh, mọi người vẫn nhắc đến một số cái tên, hình như gọi là có một chút chút tình cảm với Trà Giang. Không hiểu thực hư ra sao thưa bà , bởi vì ngà y xưa, thuở đôi mươi của bà quá đẹp và nồng nà n, như những nhân vật trong phim của bà vậy?
- (Cười). Tôi biết thế nà o chị cũng đưa tôi và o tình thế nà y, vì chị cũng biết những cuộc gặp với bạn bè thân yêu của tôi ở Hà Nội. Có lẽ không thể từ chối được câu hửi nà y, nhưng liệu nói thật mọi người có tin không?
Tôi đóng phim Một ngà y đầu thu, Chị Tư Hậu lúc 20 tuổi. Đoà n là m phim rong ruổi nhiửu tháng trời. Thời của chúng tôi trong sáng lắm, có thích nhau và mê nhau cũng chỉ là sự cảm phục và trân trọng nhau thôi, có dám thổ lộ đâu. Có phim, cùng lúc nhiửu anh quan tâm đến mình, quí mình, nhưng cũng chỉ dừng lại ở ánh nhìn và sự chiửu chuộng thông thường của bạn đồng nghiệp.
- Thực ra, tình cảm của đạo diễn dà nh cho diễn viên nữ chính hơn người khác cũng là lẽ thường, đạo diễn Khánh Dư và đạo diễn Hải Ninh với Trà Giang thì như thế nà o nhỉ?
- Tôi chưa hiểu lắm câu hửi nà y, có đúng là , hai anh ấy có yêu Trà Giang không, đúng chưa?
Sau nà y, khi đã là ông, là bà , mỗi lần trở ra Hà Nội, tôi tránh nhiửu cơ hội để ít gặp lại các anh vì sợ bị hiểu lầm. Nói ra không ai tin là chúng tôi không có chuyện gì và tôi không thanh minh. Chỉ biết rằng, tôi quí trọng anh Khánh Dư nhất vì sống hồn nhiên, chất nghệ sĩ mạnh, niửm vui thì anh thể hiện bằng la hét, không là m được thì anh vò đầu bứt tai, khó chịu. Có một chi tiết nà y, khi là m phim Chị Tư Hậu, tôi bị dị ứng phải ra Đồng Hới chữa bệnh, tôi phải ngủ lại đêm với một đồng chí phụ quay. Chị tin không, vẫn rất trong sáng...
Là m phim Lửa rừng, anh Trần Phương có tán tỉnh Trà Giang và Tuệ Minh, nhưng cũng chỉ dừng lại ở sự vui đùa cho đỡ căng thẳng mà thôi.
Ngạc nhiên nhất là trên một bà i báo, một cựu cầu thủ có chơi thân với ba Khánh của tôi, nói rằng, vợ ông ghen với Trà Giang buộc ông ấy phải xé hết ảnh của bà . Thật là vô lý, khi một ai đó ngộ nhận vử tình cảm của mình. Và như lời tâm sự của bà , rằng bà có tặng ảnh cho người đó bao giử đâu?!
Còn một và i người nữa thì thiên hạ cũng đổ thừa kiểu họ yêu nhau nhưng không lấy được nhau nhưng phải thà nh thật với mình và lương tâm một điửu là anh Bích Ngọc là tình yêu duy nhất trong cuộc đời của tôi. Sự quan tâm chăm sóc của chồng dà nh cho mình những ngà y đi là m phim, nâng giấc ngủ, bóc quả cam, pha ly sữa và dạy tôi cách chèo thuyửn thúng đóng phim... vẫn còn vẹn nguyên trong trí nhớ. Anh ấy là mối tình đầu và cũng là mối tình cuối cùng trong cuộc đời tôi.