Hà Nội đã có bao nhiêu tên gọi
Chuyển động Hà Nội - Ngày đăng : 09:02, 09/01/2013
Tên chính quy
Là những tên được chép trong sử sách do các triửu đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:
Long Đỗ:
Truyửn thuyết kể rằng, lúc Cao Biửn nhà Đường, và o năm 866 mới đắp thà nh Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ. Thí dụ và o năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời kinh đô vử đất An Tôn, phủ Thanh Hoá. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngà y xưa, nhà Chu, nhà Nguửµ dời kinh đô đửu gặp điửu chẳng là nh. Nay đất Long Đỗ có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (tức sông Hồng ngà y nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi". Điửu đó cho thấy, Long Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.
Tống Bình:
Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tuử³ (581-618), Đường (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngà y nay). Tới đời Tuử³ chúng mới chuyển đến Tống Bình.
Đại La:
Đại La hay Đại La thà nh nguyên là tên vòng thà nh ngoà i cùng bao bọc lấy Kinh Đô. Theo kiến trúc xưa, Kinh Đô thường có "Tam trùng thà nh quách": Trong cùng là Tử Cấm thà nh (tức bức thà nh mà u đử tía) nơi vua và hoà ng tộc ở, giữa là Kinh thà nh và ngoà i cùng là Đại La thà nh. Năm 866 Cao Biửn bồi đắp thêm Đại La thà nh rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thà nh nà y được gọi là thà nh Đại La. Thí dụ trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: "... Huống chi thà nh Đại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Biửn) ở giữa khu vực trời đất..." (Toà n thư, Tập I, H, 1993, tr 241).
Thăng Long:
(Rồng bay lên). Đây là cái tên có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách Đại Việt sử ký toà n thư cho biết lý do hình thà nh tên gọi nà y như sau: "Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010) vua từ thà nh Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thà nh Đại La, tạm đỗ thuyửn dưới thà nh, có rồng và ng hiện lên ở thuyửn ngự, nhân đó đổi tên thà nh gọi là thà nh Thăng Long" (Toà n thư, Tập I, H, tr 241).
Đông Đô:
Sách Đại Việt sử ký toà n thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương - TM) coi phủ đô hộ là Đông Đô" (Toà n thư Sđd - tr 192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hoá là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô" (Cương mục - Tập 2, H 1998, tr 700).
Đông Quan:
Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hà m nghĩa kử³ thị Kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là "cửa quan phía Đông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thà nh Đông Đô, đổi tên thà nh Đông Quan. Sách Đại Việt sử ký toà n thư chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý (1408), Giản Định đế bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thà nh Đông Quan thì chắc phá được chúng" (Toà n thư Sđd - Tập 2, tr224).
Đông Kinh:
Sách Đại Việt sử ký toà n thư cho biết sự ra đời của cái tên nà y như sau: "Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ Đử, và o đóng ở thà nh Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngà y 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thà nh Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây Đô, cho nên gọi thà nh Thăng Long là Đông Kinh" (Toà n thư - Sđd. Tập 2, tr 293).
Bắc Thà nh:
Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802 - TM). Vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế - TM) nên gọi Thăng Long là Bắc thà nh"(Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - H. 1979, tr 12).
Thăng Long:
(Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế - TM), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thà nh là m Tổng trấn miửn Bắc và đổi kinh thà nh Thăng Long là m trấn thà nh miửn Bắc. Kinh thà nh đã chuyến là m trấn thà nh thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toà n quốc, nên Gia Long thấy không tiện bử đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là Rồng thà nh chữ "Long" là Thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bử hoà ng thà nh cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoà ng thà nh Thăng Long lại lớn rộng quá.
Hà Nội:
Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thà nh Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ ứng Hoà , phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thà nh tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thà nh Thăng Long cũ là m tỉnh lửµ của Hà Nội". (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội. H. 1960, tr 82).
Tên không chính quy
Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ thà nh Thăng Long - Hà Nội:
Trường An (Trà ng An):
Vốn là tên Kinh đô của hai triửu đại phong kiến thịnh trị và o bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiửn Hán (206 tr CN - 8 sau CN) và Đường (618 - 907). Do đó, được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó cũng được người bình dân sử dụng nhiửu trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.Thí dụ:Chẳng thơm cũng thể hoa nhà iDẫu không thanh lịch cũng người Trà ng AnRõ rà ng chữ Trường An ở đây là để chỉ kinh đô Thăng Long.
Phượng Thà nh (Phụng Thà nh):
Và o đầu thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bà i phú Nôm rất nổi tiếng:
Phượng thà nh xuân sắc phú
(Tả cảnh sắc mùa xuân ở thà nh Phượng). Nội dung của bà i phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng thà nh hay Phượng thà nh được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ thà nh Thăng Long.
Long Biên:
Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguửµ, Tấn, Nam Bắc triửu (thế kỷ III, IV, V và VI) đóng trị sở của Giao Châu (tên nước Việt Nam thời đó). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc triửu đăng khoa lục có đoạn chép vử tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 - 1877); ghi lại bà i thơ của vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:
Long Biên tà i hướng Phượng thà nh hồi
Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi!Dịch nghĩa:
Nhớ người vừa tự thà nh Long Biên vử tới Phượng Thà nh.
Trẫm còn đang hy vọng triệu ngươi và triửu bà n đối, bỗng vĩnh biệt ngay.
Thà nh Long Biên ở đây, vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giử Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự Đức triệu ông vử kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.
Long Thà nh:
Là tên viết tắt của Kinh thà nh Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhử theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và là m thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ngọc Du có viết bà i Long thà nh quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long thà nh).
Hà Thà nh:
Là tên viết tắt của thà nh phố Hà Nội được dùng nhiửu trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bà i Hà Thà nh chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bà i Hà Thà nh thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thà nh hiểu vọng của Ba Giai?...
Hoà ng Diệu:
Ngay sau Cách mạng tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên nà y để chỉ Hà Nội.Ngoà i ra, trong cách nói dân gian, còn nhiửu từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay nghử đất lử Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ), Thượng Kinh, tên nà y để nói đất kinh đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhà i, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh). Kinh Kử³, tên nà y nói đất có kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh kử³, thứ nhì phố Hiến).Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "Đ‚n Bắc, mặc Kinh". Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ kinh đô Thăng Long.Loại tên "không chính quy" của Thăng Long - Hà Nội còn nhiửu được sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao... kể ra đây không hết được.