Nhà văn Nguyễn Hoà ng Thu: Năm tháng buồn vui
Truyện - Ngày đăng : 13:09, 26/03/2013
Rồi một hôm, tôi cùng với mấy người bạn yêu mến văn chương, hẹn với nhà văn Thái Bá Lợi để chia vui, vì anh vừa nhận được giải thưởng Nhà nước vử văn học nghệ thuật. Đúng giử hẹn, Thái Bá Lợi xuất hiện và tôi thật bất ngử khi nhìn thấy kẻ đồng hà nh cùng tác giả của tiểu thuyết Minh Sư (Tiểu thuyết của Thái Bá Lợi được giải thưởng 5 năm của Hội Nhà văn Việt Nam - NV) lại là con người mà thi thoảng tôi đã nhìn thấy ấy...Trước rất nhiửu anh em, nhà văn Thái Bá Lợi trịnh trọng giới thiệu: Đây là nhà văn Nguyễn Hoà ng Thu mới từ Tây Nguyên xuống....
Nhà văn Nguyễn Hoà ng Thu kể với tôi rằng: à”ng được sinh ra và o năm 1945 ở một ngôi là ng nhử thuộc địa bà n Phan Thiết. Vì hoà n cảnh gia đình nên thuở ấu thơ, ông không được đến trường như nhiửu bạn bè cùng trang lứa. Năm lên 8, ông phải phiêu dạt từ Phan Thiết ngược ra Ninh Hòa và ở đó, ông mới lần đầu tiên được cắp sách đến trường trong niửm vui khôn xiết của tuổi thơ. (Vì đi học chậm, nên trong lý lịch hiện thời Nguyễn Hoà ng Thu có năm sinh là 1947 - NV).
Theo học ở Ninh Hòa được một thời gian thì Nguyễn Hoà ng Thu lại di cư và o Nha Trang để tiếp tục con đường đèn sách cho đến lúc trưởng thà nh. Nguyễn Hoà ng Thu bước và o tuổi thanh niên ở một đô thị lớn của miửn Nam Việt
Những cảnh bắt lính liên tiếp diễn ra khiến cho những chà ng trai mẫn cảm như Nguyễn Hoà ng Thu khinh bỉ cuộc chiến vô nghĩa đó và đã tử thái độ chống lại nhà chức trách đương thời bằng hà nh động cụ thể là bất tuân lệnh tổng động viên của quân đội. Bởi vì không chấp hà nh quân lệnh nên năm 1967, Nguyễn Hoà ng Thu đã bị bắt giam, rồi bị đà y đi lao công tại chiến trường. Những ngà y ấy, ông đã là m thơ, viết truyện với nội dung đòi hòa bình, chống bắt lính.
Cũng vì vậy mà Nguyễn Hoà ng Thu lại bị bắt đưa đi huấn luyện quân sự tại quân trường để bổ sung quân số cho Sư đoà n 22 Bộ binh ngụy ở mặt trận Tây Nguyên. Và i tháng sau khi đăng lính, từ trận địa Hà m Rồng - Plâycu, Nguyễn Hoà ng Thu đã đà o ngũ, trốn vử Sà i Gòn để tìm gặp những người quen cũ có cùng niửm đam mê văn chương, chữ nghĩa. Sống lang bạt ở Sà i Gòn, Nguyễn Hoà ng Thu mưu sinh bằng nghử sửa mo-rát, viết văn, là m báo để cộng tác với các tử báo, tạp chí có uy tín lúc bấy giử như: Trình Bà y, Đối Diện...
Nguyễn Hoà ng Thu kể rằng, năm 1971, tử Đối Diện in truyện ngắn Người bắt ruồi của ông, rồi không biết bằng cách nà o, tử báo có in cái truyện ngắn ấy lại lên được với chiến khu, rồi theo chân những người lính giải phóng quân ra đến miửn Bắc. Năm 1972, Báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam đã đăng lại truyện ngắn nà y. Tất nhiên là phải đến sau ngà y nước nhà thống nhất, một hôm tình cử Nguyễn Hoà ng Thu gặp được nhà văn Nguyễn Văn Bổng ở Nha Trang.
Nghe ông Bổng nói mới biết Báo Văn nghệ, một tử báo danh giá của Hội Nhà văn quốc gia in truyện ngắn của mình. Hôm đó, nhà văn Nguyễn Văn Bổng đã cẩn thận ký tên mình rồi mang tặng cây bút trẻ của xứ sở trầm hương nà y một tử báo biếu và khoản nhuận bút đến 22 đồng bạc Bắc (thời giá lúc mới giải phóng miửn Nam có thể mua đến 30 chai bia - NV).
Nhân vật chính trong truyện ngắn Người bắt ruồi là anh Năm, một thanh niên hiửn là nh, chất phác, yêu hòa bình và tự do...vì chống lại lệnh tổng động viên của quân đội Sà i Gòn nên bị bắt và tống giam ở quân lao Nha Trang. Ngà y ngà y, bọn cai ngục ở đây bắt những kẻ bị tống giam mỗi người phải là m một việc như nhặt rau, chẻ củi, quét nhà ...
Anh Năm được giao một nhiệm vụ rất đặc biệt mang tính giải trí cho gã cai ngục. Theo lệnh của viên đại úy chỉ huy trưởng của quân lao thì mỗi ngà y anh Năm phải bắt cho được 100 con ruồi. Đến cuối chiửu, anh Năm phải mang chiến lợi phẩm của mình đến để trình diện với bọn cai ngục. Trong số 100 con ruồi phải bắt ấy, nếu thiếu con nà o thì anh Năm phải bị đánh 1 roi bằng dây điện.
Và đương nhiên, do không thể bắt đủ số ruồi được giao, nên ngà y nà o anh Năm cũng phải chịu cảnh đòn roi. Đau đớn và căm phẫn sự tà n nhẫn và vô lý của chốn quân lao, anh Năm lại da diết nhớ vợ con của mình đang còn trẻ dại, nhớ quê hương của mình với những cánh đồng xanh thẳm thẳng cánh cò bay...
Rồi một ngà y, anh Năm quyết định bà n với những người bạn cùng cảnh ngộ đang bị giam giữ ở quân lao tìm cách vượt ngục. Trong lúc đang tìm đường thoát thân, anh Năm đã bị hệ thống đèn pha của quân lao phát hiện, một loạt đạn M.16 vang lên, anh Năm trúng đạn và gục chết ngay chính cái nơi hà ng ngà y anh vẫn đứng rình để bắt những con ruồi...
Khoảng giữa năm 1975, Nguyễn Hoà ng Thu tìm đến Ty Thông tin - Văn hóa tỉnh Khánh Hòa để xin việc là m và được bố trí và o là m việc ở bộ phận xuất bản tử tin (tiửn thân của Báo Khánh Hòa ngà y nay) cho đến năm 1976, lúc bấy giử ở tỉnh Phú Khánh (đơn vị hà nh chính được sáp nhập giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa) có cuộc vận động thà nh lập Hội Văn học - Nghệ thuật thì Nguyễn Hoà ng Thu chuyển công tác đến đó để góp một tay với anh em văn nghệ địa phương ấn hà nh tử Tạp chí Văn nghệ của tỉnh.
Trong thời gian nà y, Nguyễn Hoà ng Thu đã viết xong đử cương cuốn tiểu thuyết đầu tay có tên gọi là Con đường đêm. Được anh em khích lệ, ông đã mạnh dạn gửi bản thảo đử cương tiểu thuyết nà y đến Hội Nhà văn Việt
Nguyễn Hoà ng Thu nhớ lại: Hồi đó, sở dĩ trại viết được bố trí vử Hải Dương là vì ở đó nguồn lương thực dồi dà o, anh em dự trại có cái để ăn mà viết. Nhiửu cây bút tham gia trại viết nà y vử sau có nhiửu tác phẩm gây được sự chú ý của bạn đọc như: Đỗ Thị Hiửn Hòa, Hà o Vũ, Đặng ài, Trần Tự (Hải Phòng), Trúc Phương (Vĩnh Long), Phan Trường Giang, Nguyễn Tùng Linh...
Có lần, ngồi với tôi trong căn phòng rất nhử của Chi nhánh Nhà xuất bản Hội Nhà văn tại miửn Trung, Nguyễn Hoà ng Thu kể rằng: Cũng chính nhử cái truyện ngắn Người bắt ruồi ấy được nhà văn Nguyễn Văn Bổng và nhà văn Đoà n Giửi đọc. Nên chi năm 1979, khi Trường Viết văn Nguyễn Du khai giảng khóa 1, Nguyễn Hoà ng Thu đã được hai nhà văn nà y giới thiệu đi học.
Nguyễn Hoà ng Thu nhớ lại: Lớp viết văn Nguyễn Du khóa 1 ấy có 46 người, đại đa số là anh em từ quân đội đi học như: Hữu Thỉnh, Chu Lai, Thái Bá Lợi, Trung Trung Đỉnh, Bùi Công Bính, Mã A Lửnh... rồi một số cây bút trẻ lúc đó như: Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, Nguyễn Tùng Linh, Lê Thị Mây, Lâm Thị Mử¹ Dạ, Vương Anh, Chinh Văn, Ngô Thị Kim Cúc, Cao Duy Thảo, Ma Trường Nguyên, Anh Chi, Hà o Vũ, Đỗ Thị Hiửn Hòa... Nói chung, đa số thà nh viên của lứa học trò đầu tiên ở Trường Viết văn Nguyễn Du ấy, đến nay đã là những tên tuổi của nửn văn học nước nhà .
Năm 1982, sau khi học xong ở Trường Viết văn Nguyễn Du, Nguyễn Hoà ng Thu trở lại Phú Khánh là m một chân biên tập viên ở tạp chí Văn nghệ địa phương, cho đến năm 1991 thì từ giã Nha Trang để và o Sà i Gòn tìm kiếm một công việc mới. Qua sự giới thiệu của bạn bè, ông đã tìm đến, gõ cửa Tòa soạn Báo Thanh Niên để xin việc.
Nhà báo Nguyễn Công Khế - Người phụ trách Báo Thanh Niên lúc đó đã thuận tình và phân công ông đến thường trú tại vùng cao nguyên. Vậy là Nguyễn Hoà ng Thu lại khăn gói lên vùng đất đử Đắk Lắk để thực hiện chức phận của một phóng viên thường trú. Kể từ đó, Nguyễn Hoà ng Thu đã gắn những buồn vui của cuộc đời mình với đất Tây Nguyên. Có những lúc suốt cả chục năm trời, ông phải dấn thân và o công việc của một người là m báo mà lãng quên mất niửm đam mê sáng tạo văn học.
Chỉ đến lúc, tình cử trên đường đi công tác tại Kon Tum và o mùa thu năm 2000, ông gặp lại hai người bạn học của mình là nhà văn Thái Bá Lợi và nhà văn Trung Trung Đỉnh. Trong chếnh choáng của men say, trong nỗi mừng vui gặp lại, nhà văn Trung Trung Đỉnh đã tha thiết nói với Nguyễn Hoà ng Thu rằng: Ngà y xưa tôi đọc truyện ngắn Người bắt ruồi của ông tôi rất thích, vì sao ông lại bử viết văn? à”ng không viết văn là ông có lỗi với thầy mình, có lỗi với bạn bè mình. Kết thúc cuộc rượu ấy là rất nhiửu nước mắt và những lời hứa hẹn văn chương.
Cuối năm 2000, bạn đọc ngạc nhiên khi Nguyễn Hoà ng Thu xuất bản trường ca Krông Ana không đổi dòng. Năm 2002, Nguyễn Hoà ng Thu cho ra đời tiểu thuyết Con đường đêm do Nhà Xuất bản Hội Nhà văn in, đó là một cuốn sách hay viết vử chế độ nhà tù của phía bên kia, vử thân phận một thanh niên thôn quê vì chối từ vũ khí mà số phận phải trớ trêu trong vòng lao lý.
Trên đà ấy, năm 2005, Nguyễn Hoà ng Thu lại tiếp tục ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết thứ hai có tên là Đi qua bóng tối do Nhà Xuất bản Trẻ ấn hà nh. Đây là cuốn sách viết vử cảnh sống nơm nớp lo sợ, đầy căm giận của một đà o binh quân đội Sà i Gòn tên Hải... (Sách được giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt
Năm 2008, ông in cuốn Nỗi buồn đi qua, một cuốn tiểu thuyết viết vử thời kử³ sau chiến tranh, vử mối quan hệ giữa thiên nhiên với con người... Hiện tại, ông nói với tôi rằng, ông đang cố gắng để hoà n tất cuốn tiểu thuyết mang tính tổng kết lại đời mình có tựa đử Nắng mai không ở lại, sách viết vử những thay đổi của miửn đất Tây Nguyên, những cái được và chưa được của miửn đất nà y qua hồi ức của nhân vật chính là nhà báo... à”ng bảo rằng, đây là cuốn sách mà ông phải sửa nhiửu vì tính ông vốn dĩ không chấp nhận văn chương được viết ra theo lối đường được, đèm đẹp...
Bây giử thì nhà văn có râu tóc muối tiêu nặng mà u từng trải đang hôm sớm một mình trong ngôi nhà ở vùng cao nguyên đất đử Đắk Lắk. Nhiửu bạn văn bảo rằng, nhà Nguyễn Hoà ng Thu có rất nhiửu rượu quý, toà n là những thứ rượu được ngâm bởi sản vật của rừng. à”ng bảo cũng chỉ thường thôi nhưng mình là nhà báo, nhà văn đầu tiên của Tây Nguyên đi xe hơi thì đúng. à”ng mua chiếc Nissan 4 chỗ ngồi đời cô Lựu với giá 50 triệu đồng, sau khi sử dụng 6 năm, ông đã bán lại với giá 20 triệu đồng cho một cơ sở kinh doanh phụ tùng, phế liệu.
Đôi khi ngồi với ông bên chén rượu, tôi đã cố gặng hửi chuyện gia đình, bao giử cũng thế, Nguyễn Hoà ng Thu lại uống cạn một chén rồi từ tốn nói rằng...ấy là chuyện riêng tư có nhiửu tế nhị. Nói là nói vậy, nhưng tôi thấy phía sau câu nói ấy là một nỗi nghẹn ngà o, phía sau đôi mắt ấy là một nỗi buồn thương thăm thẳm...
Ngà y trước, chuyện Nguyễn Hoà ng Thu yêu, cả là ng văn ai cũng biết, thậm chí có người còn thêm mắm, thêm muối để từng câu chuyện tình yêu ấy được thăng hoa. Nhưng rốt cuộc, nói như Nguyễn Hoà ng Thu là cái gì không hợp thì phải tan chứ biết là m sao bây giử? Điửu quan trọng là phải sống như thế nà o cho phải lẽ.
Viết xong bà i nà y, tôi gọi điện thoại cho Nguyễn Hoà ng Thu để hửi thăm sức khửe. Từ đầu dây bên kia vẫn vang lên tiếng nói hà o sảng như ngà y nà o. à”ng nói với tôi: Hai ngà y nữa mình sẽ xuống Đà Nẵng, anh em mình lại đánh đu vỉa hè để nói chuyện cuộc đời với vô cùng những năm tháng buồn vui...