Cây cầu huyửn thoại của Hà Nội trong lòng học giả phương Tây
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 19:30, 12/03/2015
Hơn 110 năm kể từ khi khánh thà nh đến nay, người Hà Nội đã kể không biết bao câu chuyện vử cầu Long Biên và chắc chắn họ sẽ vẫn còn tiếp tục kể vử cây cầu huyửn thoại nà y. Đặc biệt, không chỉ với người Hà Nội, cầu Long Biên còn thu hút sự chú ý của cả những người nước ngoà i từng đến tìm hiểu hay nghiên cứu vử Hà Nội, Arnaud Le Brusq là một học giả nhiửu năm nghiên cứu vử Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Trong đó cuốn sách Vietnam à travers l™Architecture coloniale[1], ông đã kể lại câu chuyện vử buổi đầu khi mới ra đời của cây cầu nổi tiếng nà y như sau:
Cầu Long Biên những năm đầu thế kỷ XX qua ống kính của một nhiếp ảnh gia người Pháp |
Trong là n sương mù dà y đặc của tháng 2, cà ng lên cao con dốc dẫn tới cầu Long Biên thì những tiếng kêu inh ửi từ Đại lộ Trần Nhật Duật cà ng giảm dần. Ở hai bên của là n đường sắt, người ta cấm các phương tiện chạy bằng động cơ và chỉ dà nh cho hai loại xe không gây tiếng ồn là xe đạp và xích lô vận chuyển hà ng hoá. Thỉnh thoảng, một chiếc xe lửa lớn lặng lẽ ló ra trong bầu không khí như bông và từ từ đi qua trong tiếng va đập ầm ĩ. Trong hà ng người chật cứng còng lưng cố gắng, người ta đã quên mất việc ngắm nhìn cảnh con sông Hồng vận động, nó vươn dà i trên những lớp đất son thấp hơn tới 20 mét và trông xa nó như xích lại gần bầu trời. Bị máy bay Mử¹ ném bom nhiửu lần rồi vá víu tạm bợ, chiếc khung đường sắt to lớn ấy giống như một con rồng bảo vệ nằm tựa trên lối ra của Hà Nội, nối liửn thủ đô với các tỉnh phía Bắc, và vử phía bên kia là nối với Trung Quốc. Trong tâm trí của người dân, vử mặt tổ chức, cây cầu từ nay trở đi là một phần trong thà nh phố của họ. Nhưng trước khi thuộc quyửn sở hữu của tất cả mọi người, công trình là một tác phẩm mang dấu ấn của Paul Doumer.
Và o năm 1897, sau nhiửu giử đi lại trên sông với tốc độ chậm, cuối cùng ông ta cũng đã đến nơi, viên Toà n quyửn cảm thấy rất khó chịu. Để và o được đất liửn qua một cây cầu lung lay, trước hết ông ta phải đi trên một bãi cát - hòn đảo dà i và thấp, lắng xuống bởi dòng nước. Ngay lúc ấy, ông ta hửi:
- Cây cầu nà y được là m từ bao lâu rồi?
- Cách đây 6 tháng, và o thời điểm những đợt nước cuối cùng dâng cao.
- Tại sao nó lại được là m mửng manh như vậy?
- Chỉ là tạm thời.
- Người ta không thể gia cố nó sao?
- Không, vì trong hai tháng nữa, nó sẽ bị những đợt nước mới dâng cao cuốn trôi.
- Người ta không thể dựng một chiếc cầu chắc chắn, lâu dà i à ?
- Bãi cát cần có một cây cầu và bản thân nó cũng không tồn tại được lâu. Một ngà y nà o đó con sông cũng sẽ lại cuốn trôi nó đi.
Rộng như một eo biển, sâu chừng 30m và o mùa mưa, di chuyển theo ý muốn của nó, lôi tuột các con đê và cuốn trôi là ng mạc, con sông Hồng dường như không thể chế ngự nổi. Nó mang theo cuộc sống bằng việc là m cho đất đai trở nên mà u mỡ và mang theo cả những cái chết do trà n bử. Vì vậy, đối với con sông nà y, người Việt Nam có tình cảm hai chiửu: lòng biến ơn và nỗi sợ hãi.
Sau chuyến đi trên, viên Toà n quyửn quyết định xây dựng tại đây một cây cầu và ông đã thuyết phục những người là m nghệ thuật trước khi mở một cuộc thi thiết kế, kết quả là công ty Daydé và Pillé đã già nh thắng lợi và o năm 1897.
Từ tường cánh gà nà y sang tường cánh gà khách dà i 1680m, công trình bao gồm 19 nhịp xà thép dựa trên 20 trụ xây dà i 30m dưới mặt nước. Những công nhân là m việc trên công trường khổng lồ nà y là một đội quân ưu tú gồm 2000 người.
Theo lời của quan nhiếp chính Nguyễn Trọng Hiệp thì chất trữ tình bao trùm lên cả cây cầu: vươn dà i như một con rồng xanh nổi lên trên mặt nước, hay như một cây cầu vồng tuyệt đẹp sừng sững giữa khoảng không bao la. àt trau chuốt hơn, một diễn giả người Pháp mua vui viên toà n quyửn bằng những câu như: Ngà i - dòng sông hiện lên thật hạnh phúc và kiêu hãnh! Tôi là dòng chảy của con sông đó. Con sông Hồng dữ dội đã không còn là nỗi kinh hoà ng của những con người nơi đây. 5 năm trước, Paul Doumer đến nơi nà y trên một chiếc xà lan một cách mệt mửi, giử đây trở lại nơi nà y, ông là người đầu tiên đi trên tuyến đường sắt xuống tận Hải Phòng.
Đến nay, cùng với sự phát triển của đất nước, Hà Nội đã có thêm những cây cầu mới, hiện đại hơn để phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân. Cây cầu hơn 110 năm tuổi không còn giữ vai trò huyết mạch giao thông nhưng vẫn giữ nguyên một giá trị văn hóa, kiến trúc, là một phần không thể thiếu trong lòng người Hà Nội và là ấn tượng sâu đậm với các du khách nước ngoà i từng đặt chân đến nơi đây.