Văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập: Gạn đục, khơi trong
Mỹ thuật - Nhiếp ảnh - Ngày đăng : 21:40, 16/02/2016
Bảo tồn có chọn lọc
Những phẩm chất nổi bật như: à chí độc lập, tự cường, gắn kết cộng đồng; khiêm tốn, chăm chỉ, sáng tạo, nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa, trọng tình... của con người Việt Nam được trao truyửn từ đời nà y sang đời khác, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, bản sắc văn hóa không phải là bất biến, luôn có sự trao đổi, tiếp biến với các nửn văn hóa khác trong quá trình phát triển để tạo ra những giá trị mới phù hợp, tiên tiến hơn...
Khu di tích Hoà ng thà nh Thăng Long đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Ảnh: Hà Chi |
Từ năm 1986 đến nay, văn hóa được Đảng xác định là nửn tảng, động lực phát triển kinh tế - xã hội. Trên tinh thần đó, Nhà nước xây dựng hà nh lang pháp lý để quản lý và dà nh sự quan tâm, đầu tư cả vử nguồn lực vật chất và tinh thần để bảo tồn những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Trước đây, thế giới hầu như chỉ biết đến Việt Nam là đất nước chiến thắng những kẻ thù lớn mạnh, thì hôm nay, bạn bè năm châu đã biết đến Việt Nam là đất nước tươi đẹp, có chiửu rộng và chiửu sâu văn hóa thông qua hệ thống di sản văn hóa đồ sộ đang được gìn giữ, phát huy. Đó là quần thể di tích cố đô Huế (tỉnh Thừa Thiên Huế), vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), khu phố cổ Hội An, di tích Mử¹ Sơn (Quảng Nam), vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bảng (Quảng Bình), Khu trung tâm Hoà ng thà nh Thăng Long (Hà Nội), Thà nh nhà Hồ (Thanh Hóa), không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, ca trù, quan họ... Nhiửu di sản văn hóa của Việt Nam đã được UNESCO đưa lên "bản đồ" di sản thế giới.
Dự án sưu tầm, lưu giữ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể Sử thi Tây Nguyên, nghệ thuật biểu diễn truyửn thống... gây được tiếng vang lớn. Lễ hội đửn Lảnh Giang, tịch điửn Đọi Sơn (Hà Nam), lễ hội xuống đồng của người Khmer (Bình Phước), lễ mừng lúa mới của đồng bà o Tây Nguyên... sau nhiửu năm vắng bóng đã được phục dựng. Ở Hà Nội, điệu hát Dô (Quốc Oai); ca trù Chanh Thôn (Phú Xuyên), Lỗ Khê (Đông Anh), An Khánh (Hoà i Đức); chèo Tà u (Đan Phượng); múa Bồng (Triửu Khúc)... một thời gian dà i bị lãng quên nay hồi sinh, trở thà nh món ăn tinh thần không thể thiếu của nhân dân địa phương.
Trong lịch sử phát triển dân tộc luôn có sự giao lưu, du nhập và tiếp biến văn hóa nước ngoà i. Nhưng cái hay, cái thú vị là người Việt đã biến những yếu tố vay mượn thà nh thuần Việt, là m phong phú thêm, mạnh thêm nửn văn hóa Việt Nam. Ví dụ như người Việt dùng chữ Hán nhưng lại đọc theo âm Việt rồi sáng tạo ra chữ Nôm; người Việt đánh đuổi giặc Pháp nhưng vẫn học tiếng Pháp để tìm hiểu vử văn hóa phương Tây, thậm chí giao tiếp, viết sách bằng tiếng Pháp, rồi sáng tạo ra một nửn văn học, nghệ thuật, kiến trúc mới mang bản sắc Việt.
Từ hình tượng linh vật được sử dụng trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam, nhà nghiên cứu Trần Lâm Biửn (Cục Di sản văn hóa) khẳng định: "Linh vật do người Việt Nam sáng tạo hoặc du nhập, tiếp biến từ các nửn văn hóa bên ngoà i, nhưng được sử dụng rộng rãi từ lâu đời, phản ánh sâu sắc đời sống văn hóa, tâm linh của dân tộc". Mới đây, di sản kéo co ngồi được sáng tạo và thực hà nh bởi cộng đồng trồng lúa ở Việt Nam, Hà n Quốc, Philipines và Campuchia được UNESCO vinh danh cũng vì di sản mang tính đa quốc gia nhưng lại có nét tương đồng. Qua đó có thể thấy, dù trong hoà n cảnh bắt buộc hay tự nguyện, người Việt đửu có khả năng du nhập và tiếp biến văn hóa rất tà i tình. Khả năng thích ứng và tiếp biến văn hóa được nhiửu nhà nghiên cứu ví như thứ "vắc xin" chống lại sự xâm lăng văn hóa từ những kẻ thù lớn mạnh hơn ta gấp nhiửu lần.
Thời cơ và thử thách
Không thể đứng ngoà i xu hướng tất yếu, việc bảo vệ, phát huy giá trị văn hóa trong những năm gần đây vấp phải không ít khó khăn. Đó là sự xâm nhập của một số sản phẩm văn hóa độc hại và o nước ta bằng nhiửu con đường, có thể tác động xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hà nh vi của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ. Nhiửu lần, các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ, sự tác động của những sản phẩm văn hóa độc hại là một trong những nguyên nhân là m hủy hoại, xói mòn nửn tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Lối sống thực dụng, vụ lợi, vị kỷ, thích hưởng lạc; cái xấu, cái ác phi nhân tính có dấu hiệu tăng lên. Môi trường đạo đức và văn hóa là nh mạnh bị đe dọa... Đó còn là mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển trong việc gìn giữ, phát huy hệ thống di sản văn hóa.
Trên thực tế, cộng đồng ở một số nơi đã tiếp nhận yếu tố phát triển một cách tự nhiên, hà i hòa như việc xây dựng hệ thống cáp treo phục vụ du khách tại di tích Chùa Hương (Hà Nội), Yên Tử (Quảng Ninh), Tây Thiên (Vĩnh Phúc), Núi Sam (An Giang) hay việc thay đổi một phần lối sống, lối sinh hoạt của người dân Hội An đã góp phần biến di sản thà nh tà i sản phục vụ cho chính lợi ích của cộng đồng. Song một số nơi cộng đồng hoặc không muốn tiếp nhận sự phát triển, hoặc quá chú trọng sự phát triển khiến cho nhiệm vụ bảo tồn và phát triển khó tìm được tiếng nói chung. Điửu đó lý giải tại sao có chuyện một số người dân Đường Lâm là m đơn xin trả lại danh hiệu di tích, một số di tích bị là m mới; mặt trái của lễ hội chưa bị đẩy lùi...
Tiếp tục đưa "con thuyửn" văn hóa Việt Nam vượt qua thách thức, vững chắc hướng tới tương lai, đáp ứng yêu cầu phát triển bửn vững đất nước, tại Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ XII của Đảng, một lần nữa Đảng đử ra nhiệm vụ xây dựng văn hóa và con người Việt Nam phát triển toà n diện, hướng đến chân - thiện - mử¹, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. à Đảng cũng là lòng dân, Đảng và dân ta luôn cùng một nguyện vọng, ý chí, cho nên chúng ta hoà n toà n có thể tin tưởng văn hóa Việt Nam trên chặng đường phát triển sẽ "gạn đục, khơi trong" như xưa nay vẫn thế.