Cần bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp...

Tin tức - Ngày đăng : 10:42, 13/06/2017

Chưa bao giờ vấn đề đạo đức nhà báo lại được xã hội quan tâm nhiều như hiện nay. Vừa qua, Hội Nhà báo Việt Nam đã có văn bản gửi đến hội nhà báo các tỉnh, thành trong cả nước về việc tổ chức học tập, thực hiện 10 quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam. Nhân đây, Người Hà Nội có cuộc trao đổi ngắn với PGS.TS Nguyễn Thành Lợi - Tổng biên tập Tạp chí Người Làm Báo.
Cần bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp...

PGS. TS Nguyễn Thành Lợi

PV: Thưa PGS,TS những biểu hiện cơ bản về vi phạm đạo đức nhà báo là gì?

PGS.TS Nguyễn Thành Lợi: Đạo đức nghề nghiệp người làm báo được nói rất nhiều. Chúng ta cần phải xác định vấn đề đó có những biểu hiện như thế nào và khi nào thì bị gọi là vi phạm. Theo tôi, có mấy biểu hiện sau: Đầu tiên là một bộ phận nhà báo hiện nay đang làm mập mờ ranh giới giữa báo chí và truyền thông, không hiểu rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ và nguyên tắc của báo chí. Nếu nắm rõ được điều đó sẽ tránh được những vi phạm không đáng có. Ví dụ như việc rút tít của báo điện tử hiện nay. Do muốn có nhiều người đọc thậm chí là cả nhuận bút cao, đôi khi nhà báo phải rút tít “kêu”, giật gân, gây tò mò, dẫn đến chệch chuẩn, biến dạng, sai lệch và méo mó thông tin – tít bài một đằng, nội dung một nẻo. Đấy cũng là một biểu hiện của vi phạm đạo đức nghề nghiệp mà ít người không biết (hoặc có biết nhưng vẫn cố tình làm). 

Bên cạnh đó, việc tự chủ tài chính của các tờ báo đang tạo ra sân chơi, môi trường cạnh tranh trong báo chí, nâng cao chất lượng nội dung song cũng tạo ra những khó khăn cho người làm báo chân chính. Nếu viết đúng – trúng – hay thì ít người đọc. Nếu viết những vấn đề được xã hội quan tâm, nhất là những vụ việc của các doanh nghiệp thì mang lại những lợi ích kinh tế trước mắt. Nhưng kiểu liên kết ấy lại có tính hai mặt, nếu không trung thực, khách quan, đưa thông tin một chiều, hoặc là có lợi cho doanh nghiệp chẳng hạn, đó cũng là vi phạm đạo đức nghề nghiệp mà chúng ta không hay biết.

Ngoài ra, một số biểu hiện khác khá phổ biến đó là hiện nay trong giới báo chí xuất hiện nhà báo “salon” – chỉ ngồi nhà lấy tin bài của báo khác và xử lý mà không xin phép đối tác; việc sử dụng thông tin trên mạng xã hội mà không kiểm chứng hoặc tạo ra sự không bình đẳng về thông tin, ứng xử của nhà báo trước thông tin mạng xã hội khi “chính thống hóa” thông tin trên mạng xã hội thành bài báo; liều lượng thông tin không cân bằng, có sự kiện lại “im lặng” một cách đáng sợ hoặc có sự kiện lại thổi phồng quá mức cho phép…

PV: Hội Nhà báo Việt Nam đã ban hành 10 quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam. Theo ông, làm thế nào để những quy định này đi vào thực tiễn?  

PGS.TS Nguyễn Thành Lợi: Vừa qua, Hội Nhà báo Việt Nam với nhiệm vụ là cơ quan xây dựng quy định đạo đức nghề nghiệp cũng đã có những văn bản ban hành và đã có hiệu lực. Tuy nhiên, 10 quy định đó mang tính chất khái quát chung, có tính định hướng rất rõ ràng. Do đó, để các quy định này đi vào thực tiễn thì tùy từng cơ quan báo chí cũng cần phải xây dựng bộ quy tắc riêng cho mình (quy tắc con được xây dựng dựa trên quy tắc mẹ), từ câu chuyện nhà báo tham gia mạng xã hội, liều lượng thông tin cần đưa như thế nào, với mục đích gì, khi liên kết các doanh nghiệp cần tránh những gì… để làm sao nhà báo hành nghề theo đúng luật pháp, đúng quy định. 

Bên cạnh đó, lãnh đạo tòa soạn cần quan tâm đến việc tuyển đầu vào, sàng lọc một cách nghiêm túc. Việc này rất quan trọng, quyết định rất nhiều đến chất lượng phóng viên. Nếu phóng viên chưa được đào tạo bài bản, chưa hiểu đúng bản chất của người làm báo phải vì lợi ích cộng đồng, xã hội mà chỉ vì mưu sinh cái ban đầu thì hết sức nguy hiểm. Khi tuyển được phóng viên, tòa soạn cần mở các lớp đào tạo ngắn hạn, để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như đạo đức nghề nghiệp cho phóng viên hành nghề đúng tôn chỉ mục đích và tuân thủ pháp luật.

PV: Theo ông, các cơ sở đào tạo báo chí cần quan tâm đến vấn đề này như thế nào?

PGS.TS Nguyễn Thành Lợi: Các cơ sở đào tạo báo chí đã có các môn học liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên, những môn học đó chỉ là cung cấp kiến thức nền tảng cho sinh viên chứ thực tế làm nghề luôn đa dạng, phong phú. Vì vậy, theo tôi, các cơ sở đào tạo cần lắm việc dành cho sinh viên năm cuối khoảng thời gian không dài – từ 3 đến 6 tháng phải lăn lộn với các cơ quan báo chí. Thực tế, sinh viên vẫn có thời gian thực tập, kiến tập song thường không được các tòa soạn giao việc, không được va chạm nên lúc đi làm vẫn bỡ ngỡ trước công việc.

Theo tôi, mức độ vi phạm đạo đức đối với sinh viên học đúng ngành báo chí không nhiều mà xảy ra ở nhiều ngành chuyên ngành khác. Điều này cũng dễ giải thích, vì những ngành chuyên ngành khác không được đào tạo về pháp luật, đạo đức nhà báo. Cái đó cũng gây ra cái khó cho các cơ quan báo chí.

Tuy nhiên, hiện nay sinh viên báo chí học tập còn “nặng” lý thuyết, kinh viện quá, chưa bám sát hơi thở của thực tiễn đời sống báo chí. Mặt khác, một số cơ quan báo chí không mặn mà lắm việc tuyển các sinh viên báo chí mà lại để ý tuyển sinh viên chuyên về một lĩnh vực nào đó như kinh tế, môi trường, chẳng hạn…

Do đó, vấn đề đặt ra là công tác đào tạo báo chí hiện nay rất cần phải thay đổi, từ tư duy đến hiện thực. Các cơ sở đào tạo nên đặt hàng thường xuyên các nhà báo, nhà quản lý báo chí, chuyên gia đang làm việc tại các tòa soạn đến trao đổi nghề, giới thiệu cho sinh viên những kinh nghiệm hay, những vấn đề cần lưu ý, để sinh viên nắm bắt ngay những thông tin mới nhất mà thực tiễn đang đặt ra.  Những trao đổi đó sẽ giúp sinh viên báo chí bớt lúng túng, tránh sai sót, vi phạm khi bắt tay vào công việc.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Hoàng Anh (thực hiện)