Bàn ủi con gà

Truyện - Ngày đăng : 09:55, 03/06/2019

Vào những năm 80 của thập niên về trước có lẽ không ai là không biết tới bàn ủi (hay còn gọi là bàn là) con gà. Thoạt đầu nghe tên thì thấy là lạ, nhưng thật ra lại dễ hiểu vô cùng. Cái cần gạt đóng, mở nắp (để bỏ than vào bên trong) của chiếc bàn ủi có hình con gà trống nên người ta gọi luôn là bàn ủi con gà.
Vào những năm 80 của thập niên về trước có lẽ không ai là không biết tới bàn ủi (hay còn gọi là bàn là) con gà. Thoạt đầu nghe tên thì thấy là lạ, nhưng thật ra lại dễ hiểu vô cùng. Cái cần gạt đóng, mở nắp (để bỏ than vào bên trong) của chiếc bàn ủi có hình con gà trống nên người ta gọi luôn là bàn ủi con gà.

Bàn ủi con gà có nhiều loại. Loại làm bằng sắt, loại bằng nhôm, loại pha lẫn gang với thiếc, loại lại nguyên chất bằng đồng. Nhưng cho dù là loại nào đi chăng nữa, hồi ấy nhà nào mà có lấy một chiếc bàn ủi thì được xếp vào hàng ngũ gia đình giàu có. Nhất là những nhà sở hữu chiếc bàn ủi bằng đồng, vì giá trị thực của nó rất lớn, rất quý. Nhà tôi khi ấy có một chiếc bàn ủi bằng đồng, rất nhiều lần túng thiếu, khó khăn nhưng cả nhà vẫn quyết giữ lại. Đó là tài sản từ thời ông bà để lại. 

 Ở phía gia đình bên nội, bố tôi là con trưởng, và cũng là con trai duy nhất, tính bố hợp ông bà nên sau khi già ông bà ở với gia đình tôi. Tính bà nội thì sạch sẽ, ngăn nắp không ai bằng. Ngoài chuyện sắp xếp đồ đạc trong nhà, vườn tược bà còn chú ý đến chuyện ăn, chuyện mặc của mỗi người. Quần áo mỗi người trong nhà để vừa mắt bà ngoài sạch sẽ, thơm tho còn phải thật phẳng.

Bà vẫn hay bảo với chúng tôi rằng, mình nghèo cỡ nào cũng được nhưng ra ngoài nhất định phải đàng hoàng, tử tế, đừng để người khác cười vào mặt vì sự luộm thuộm, lôi thôi. Mười mấy năm về làm dâu bà, mẹ tôi cũng “lây” dần thói quen sạch sẽ ngăn nắp, nên rất chú trọng tới hình thức, chăm lo quần áo của chồng con. Quần áo của bố, của anh chị em tôi cái nào cái nấy đều được ủi thẳng nếp, treo ngăn nắp ở tủ. 

Bàn ủi con gà
Và mẹ thường ủi quần áo vào những hôm mưa gió, tranh thủ lúc không đi làm đồng. Cái bàn học của anh em chúng tôi, mẹ nhờ bố kênh ra giữa gian nhà, phía trên trải một lớp chăn chiên, dùng tay chỉnh thật phẳng một lượt. Sau khi cho than vào bàn ủi mẹ là tấm chăn trước để lông xẹp xuống, phòng có hạt bụi nào thì nó cũng dính chặt vào chăn, khi là không sợ vương vào quần áo.

Trong nhà lúc nào cũng có sẵn một bao tải than đặt ở xó bếp. Than được tận dụng sau khi nấu cơm rượu, nấu bánh chưng dịp Tết hay lúc đi chợ, đi đám giỗ sẵn đâu có than, có củi tốt là mẹ lại xin về để dành cho vào bàn ủi. Tôi để ý rằng mẹ hay dùng than gáo dừa (vỏ quả dừa sau khi lấy hết nước và cơm dừa).

Vỏ gáo dừa phơi khô khi đun rất đượm và cháy được rất lâu, ủi đồ chẳng cần lo than nguội và gắp than lần hai, lần ba. Thi thoảng không có than gáo dừa mẹ dùng than củi bình thường. Mỗi lần ủi đồ tôi lại làm chân sai vặt cho mẹ. Lúc thì chạy vào bếp lấy thêm than, lúc lại hộ mẹ treo quần, áo vào tủ.

Làng tôi khi đó chỉ độ vài hộ gia đình có bàn ủi. Ai cũng muốn mình được đẹp hơn trong mắt mọi người, nhất là vào những dịp quan trọng như cưới xin, lễ hội, tết nhất. Chính vì thế chiếc bàn ủi của nhà tôi được chu du khắp nơi, tứ xứ. Cao điểm nhất vẫn là vào dịp Tết, chẳng lúc nào nó được nghỉ ngơi. Tôi thích cái không khí, tình làng nghĩa xóm thời xưa lắm. Hai nhà mặc dù cách nhau cả cây số nhưng tình cảm như thể là láng giềng của nhau. Người thiếu cái này, người thừa cái nọ, cứ thế trao đổi, mượn nhờ vô tư. Cái cách mỗi người gìn giữ, sử dụng đồ đi mượn hệt như đồ nhà mình, cẩn thận và nâng niu. 

 Tôi nhớ năm nào cũng vậy, sát chiều ba mươi Tết, cô Hường mới tới nhà tôi mượn bàn ủi. Mỗi lần cô tới mượn, chưa cần hỏi lý do cô đã phân bua “Tết nhất bận quá, nhà em chẳng kịp nữa”. Tôi vẫn cứ ấn tượng mãi, cái khuôn mặt khắc khổ của cô, hai gò má cao lộ gồ xương lên càng trông cô khắc khổ. Chân ống thấp ống cao và quần áo thì luôn ở bộ dạng mặc đồ lao động. Mọi người trong làng ai cũng biết cô thuộc dạng nghèo.

Năm nào không thấy cô ấy đến mượn bàn ủi mẹ tôi lại chép miệng, thương cảm mấy đứa nhỏ con cô ấy, đã không có áo mới còn lại phải mặc áo nhăn. Kể tiếng nhà tôi có bàn ủi, nghe thì người ta nghĩ là nhà có của ăn của để, nhưng thực ra cũng thuộc vào diện hộ nghèo, có năm kinh tế eo hẹp chị em chúng tôi cũng không được mua quần áo mới dịp Tết, mẹ toàn phải ủi đồ cũ cho chúng tôi mặc. Tôi nhớ rất rõ cái khoảnh khắc mẹ ủi đồ xong, từ một bộ quần áo nhăn nhúm ấy thế mà qua ít phút chúng đã trở nên rất phẳng, trông như mới. Nỗi buồn không có quần áo mới mặc dịp Tết cũng vơi đi phần nào.

Năm tôi học lớp 6, những ngày sát Tết, chẳng ai bảo, trong lúc cả nhà đi vắng tôi tự ý lấy đồ của cả nhà ra ủi. Khi ấy đơn giản tôi nghĩ, mình rảnh rỗi, thương bố mẹ, phụ giúp được chút nào hay chút ấy. Lúc là chiếc áo màu tím hoa cà của mẹ, không may, khi gắp than tôi đã làm rơi xuống áo của mẹ làm thủng một chỗ. Tôi hoảng hốt, sợ nhiều hơn là tiếc chiếc áo đã hỏng. Lúc biết chuyện mẹ đã mắng tôi một trận xối xả vì cái tính tự ý làm mà làm còn bị đoảng nữa.

Thực ra thì mẹ rất ít khi la tôi nhưng có lẽ lần này, phần nhỏ mẹ xót của, phần nữa đây là tấm áo bà ngoại tặng nhân dịp mẹ về nhà chồng. Tôi tủi thân khóc tu tu nhưng sau đó cũng được an ủi phần nào bởi mẹ kéo tôi lại vỗ về, thủ thỉ rằng mẹ đã quá lời. Đó là kỷ niệm có lẽ cả đời tôi sẽ không bao giờ quên được.

Khi điện lưới quốc gia bắt đầu phủ khắp nơi, cũng là lúc xuất hiện bàn ủi điện với nhiều tiện lợi hơn hẳn. Chẳng mấy ai dùng bàn ủi con gà bằng than nữa, vô tình nó bị chìm trong quên lãng. Mấy năm gần đây, người ta lùng sục mua bàn ủi này với giá tiền triệu. Vài người biết tin tìm đến nhà nhưng bố mẹ tôi nhất quyết giữ lại. Vì với ông bà, bố mẹ đó là kỷ vật, là niềm vui tinh thần.

Với biết bao nhiêu mẫu mã bàn là, từ rẻ tiền tới đắt tiền, từ hàng nội cho tới hàng ngoại nhưng chẳng thể thu hút tôi bằng chiếc bàn ủi con gà dân dã, thân thuộc ngày nào.

Cao Văn Quyền