Nguyễn Khuyến thái độ trí thức trước thời cuộc và tình cảm quê hương làng cảnh
Truyện - Ngày đăng : 07:35, 08/07/2019
Nguyễn Khuyến, tên hồi nhỏ là Thắng, sinh ngày 15/2/1835, mất ngày 5/2/1909. Nhiều năm long đong về thi cử: trượt liền bốn khoa thi Hương 1852, 1855, 1858, 1861 và ba khoa thi Hội 1865, 1868, 1869 (ân khoa). Nhưng đã đỗ là đỗ đầu: 1864 giải nguyên, 1871 hội nguyên và đình nguyên
Nguyễn Khuyến, tên hồi nhỏ là Thắng, sinh ngày 15/2/1835, mất ngày 5/2/1909. Nhiều năm long đong về thi cử: trượt liền bốn khoa thi Hương 1852, 1855, 1858, 1861 và ba khoa thi Hội 1865, 1868, 1869 (ân khoa). Nhưng đã đỗ là đỗ đầu: 1864 giải nguyên, 1871 hội nguyên và đình nguyên. Tự Đức ban cho hai chữ Tam nguyên. Người đời ghép tên làng vào thành danh xưng Tam nguyên Yên Đổ (Yên Đổ thuộc huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Nguyễn Khuyến lập thân trong thời loạn. Khi ông đang lận đận học hành thi cử thì Pháp xâm lược nước ta: 1858 đánh Đà Nẵng, 1862 chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì, 1867 chiếm nốt ba tỉnh miền Tây. Năm 1873, khi Nguyễn Khuyến ra làm đốc học rồi án sát Thanh Hóa thì Pháp chiếm Hà Nội lần thứ nhất. Năm 1882, Pháp đánh chiếm Hà Nội và Bắc kì lần thứ hai. Tháng 8 năm 1884, triều đình Huế kí hiệp ước Hác măng đầu hàng Pháp trên toàn đất nước. Năm 1885, ông cáo quan về sống tại quê nhà. Như vậy từ khi nhậm chức (1871) đến lúc cáo quan là 14 năm, trừ 3 năm tang mẹ, ông làm quan có hơn 10 năm mà già nửa thời gian đó ông làm học quan và sử quan. Điều đó tạo nên diện mạo tác phẩm của ông.
Tác phẩm Nguyễn Khuyến hiện nay sưu tầm được khoảng 800 bài, gồm thơ, câu đối, hát nói. Chủ yếu là thơ. Cả Nôm cả Hán. Hán nhiều hơn Nôm. Có những bài thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến tự dịch ra Nôm, coi như một tác phẩm sinh đôi rất lý thú.
Thái độ trí thức trước thời cuộc
Là bậc khoa bảng cao, nhưng Nguyễn Khuyến thật sự sống gần dân. Gần dân trong thời học hành. Năm 50 tuổi đã cáo quan, lại thành dân, Nguyễn Khuyến có điều kiện thông hiểu và chia sẻ mọi gian lao của đời dân trong thời đất nước có ngoại xâm, triều đình hèn nhát, đầu hàng giặc và đàn áp các cuộc kháng chiến của dân. Nguyễn Khuyến, khi nhậm chức ở Thanh Hóa, cũng đã phải làm việc ấy ở hai huyện Tĩnh Gia và Nông Cống. Bình sinh dùi mài kinh sử mong học giỏi đỗ cao, làm quan giúp dân giúp nước nhưng lúc được làm quan thì nước mất dân đau mà ông bất lực:
Sách vở ích chi cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già
Thời thế nào thì vai trò người trí thức cũng rất quan trọng trước sự tồn vong của đất nước. Nguyễn Khuyến là một trí thức lớn lúc đó nhưng hơn ai hết ông nhận ra sự bế tắc của thứ trí tuệ cửa Khổng sân Trình Cờ đang dở cuộc không còn nước/ Bạc chửa thâu canh đã chạy làng. Nguyễn Khuyến đã không có được cái trí tuệ hành động như của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám... đứng dạy dựng cờ đánh Pháp. Lòng yêu nước của ông vướng mắc trong tư tưởng trung quân. Nhưng vua đâu còn ra vua thì trông cậy gì được ở quan: Vua chèo còn chẳng ra chi/ Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề. Ông thất vọng hoàn toàn với bộ máy lo việc nước. Họ bất tài và hèn nhát. Ông cũng thấy, thấy rõ lắm trong tầng lớp gọi là trí thức của chính mình: Cũng cờ cũng biển cũng cân đai/ Cũng gọi ông nghè có kém ai nhưng thực chất: tưởng rằng đồ thực hóa đồ chơi, đồ chơi con trẻ rằm trung thu. Vận nước suy, những thứ đỗ lạy quan xin này mọc ra nhiều lắm, Tú Xương cùng thời cũng đã kêu lên như Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến chỉ còn một cách là li khai khỏi cái guồng máy chính sự ấy. Chín khoa lều chõng để thành tài, nay đã có tài, có sắc phong Tổng đốc Sơn Tây nhưng lại quyết lui về ở ẩn là một quyết định đau đớn lắm của bậc đại khoa này. Không dễ đâu khi tự nguyện rời bỏ quyền lực, danh lợi. Trong nhiều bài thơ thấy ông tự đấu tranh quyết liệt lắm và cũng thương tâm lắm. Cuối cùng phẩm chất trí thức chân chính đã thắng. Ông tự hào với thắng lợi đó. Trong bài thơ Di chúc, ông dặn con:
Đề vào mấy chữ trong bia
Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu.
Đó là điều ông muốn rõ ràng trước tiên cùng hậu thế.
Thơ Nôm trong chủ đề này ông thường hài hước nhưng trong thơ chữ Hán, phần này, ông lại đụng nhiều vào nước mắt:
Xuân phong, xuân vũ, nhất sơn cô
Trù trướng kim ngô phi cố ngô
(Gió xuân, mưa xuân, ngọn núi
đứng chơ vơ
Ngao ngán ta ngày nay không còn
như ta ngày trước)
Tình quê hương làng xóm
Ngoài mươi năm làm quan, ông già Nguyễn Khuyến thọ 75 tuổi, đã gần trọn đời sống với dân làng Vị Hạ. Ông không chỉ thuộc lời ăn tiếng nói của dân mà thuộc cả cách lo nghĩ tính liệu việc đời:
Quanh năm làm ruộng vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa
Phần thuế quan thu phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò
Người đọc nhận thấy: 25 năm cuối đời, tính từ khi về ở ẩn, cụ Tam Nguyên làm nhiều thơ và thơ cũng hay hơn, thâm trầm hơn giai đoạn trước. Dõi theo những bài tự trào thấy cụ tự diễu thân thế mình, làm vui và cũng là làm thân với bà con cày cuốc. Cụ sống như tự mài mòn bớt đi những giác quan vốn tinh tế của một nhà thơ nhạy cảm. Mắt thì lòa đi, xem hoa trà chỉ xem bằng mũi (đếch thấy hương thơm một tiếng khà). Tai thành ngễnh ngãng (Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây). Tâm trí cũng hóa lơ mơ (Câu thơ được chửa, thưa rằng được/ Rượu uống say rồi nói chửa say) ba phải (Rằng lão rằng quan tớ cũng ừ). Cụ Tam Nguyên muốn xóa hình hài như mẹ Mốc, để trốn vào dân quê lam lũ, để sống thực cái đời dân: lo lụt, lo bão, nhớ phiên chợ Đồng ngày Tết, nghe tiếng trống giao thừa ẩm hơi mưa trong xóm và cùng dân đứng xa mà chỉ trỏ cái ngày hội Tây (Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo). Và hạ một câu kết như kiểu nói giữa giời của bà con áo ngắn: Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu. Có dịp là ông đả bọn xâm lược, đả bằng tâm lí người dân quê, mai mỉa, xỉ vả, hả hê kín đáo: Ba vuông phấp phới cờ bay dọc/ Một bức tung hoành váy sắn ngang. Thuộc tính của thơ Nguyễn Khuyến là một tâm hồn quê bàng bạc trong tâm tình, trong ngôn ngữ, trong giọng điệu. Xuân Diệu phong Nguyễn Khuyến là nhà thơ làng cảnh. Một cảnh chùa trong vùng quê ông, tả thật mà vẽ nên cảnh ảo, chùa lẫn với thiên nhiên, sư lẫn vào sương khói: Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá/ Sư cụ nằm chung với khói mây. Tiếng cuốc kêu ngoài cánh đồng nơi quán trọ mà như đụng tới miền xa thẳm của tâm tư nặng lòng dân nước:
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có những câu thơ Vịnh lụt, thật như phóng sự, mà rất thơ, rất ám ảnh:
Bóng thuyền thấp thoáng giờn
trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà.
Nhiều người đã khen ba bài thơ thu Mùa thu câu cá, Mùa thu uống rượu và Vịnh cảnh thu: phong cảnh rất điển hình nét thu Bắc Bộ, phong vị rất tiêu tao gợi cảm vang xa:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào.
Nguyễn Khuyến sử dụng tiếng Việt rất tài tình. Ông đưa ngôn từ dân dã thường ngày vào thơ bác học rất nhuyễn. Làm sang trọng cho tiếng và làm giản dị cho thơ. Năng lực ấy ngày nay ở các nhà thơ hiện đại cũng không nhiều. Câu đối của Nguyễn Khuyến là một thú chơi ngôn ngữ rất đặc sắc.