Thành tựu văn học nghệ thuật Thủ đô 10 năm sau Đại lễ 1000 năm Thăng Long
Mỹ thuật - Nhiếp ảnh - Ngày đăng : 11:54, 18/01/2020
Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội là một mốc son rực rỡ còn ghi mãi trong tâm khảm mỗi chúng ta. Để hướng tới ngày kỷ niệm lớn đó, từ 3 năm trước, chúng ta đã có những bước chuẩn bị rất tích cực.
Hoa gạo hồ Gươm - Ảnh: Xuân Chính
Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội là một mốc son rực rỡ còn ghi mãi trong tâm khảm mỗi chúng ta. Để hướng tới ngày kỷ niệm lớn đó, từ 3 năm trước, chúng ta đã có những bước chuẩn bị rất tích cực: Phát động một cuộc vận động sáng tác lớn của 9 lĩnh vực trong các ngành văn học nghệ thuật (VHNT) Thủ đô hướng tới 1000 năm Thăng Long; phục hồi lại Giải thưởng VHNT Thủ đô (đã có từ 1976, trao 5 năm 1 lần, nhưng sau khi trao được 3 lần thì dừng lại); nâng hệ thống Giải thưởng VHNT Thủ đô lên một tầm cao mới với khung giải thưởng xét 2 năm 1 lần, giá trị Giải được nâng lên gấp đôi, tổng số Giải dành cho cả 9 Hội chuyên ngành khoảng từ 2 đến 5 Giải cho mỗi Hội.
Các trại sáng tác được mở liên tục hơn, với các chuyên đề đi sâu vào các chủ đề lịch sử và văn hóa Thăng Long - Hà Nội; các cuộc hội thảo khoa học và đi thực tế cũng tập trung vào các vấn đề trọng tâm của Thăng Long – Hà Nội 1000 năm. Thành phố cũng ban hành các văn bản mới, quy định việc mở rộng ký hợp đồng đặt hàng các công trình và sản phẩm chất lượng cao, không hạn chế khối lượng và giá trị đầu tư, nếu cần thì cho phép ký hợp đồng theo giá thỏa thuận, không cần đấu thầu đối với các tác phẩm và công trình mang giá trị sáng tạo.
Những bước đi đột phá ấy đã đem lại nhiều kết quả đầy thuyết phục: Tượng đài Thánh Gióng ở trên đỉnh Sóc Sơn và Con đường gốm sứ dọc đê sông Hồng là hai tác phẩm hoành tráng ở ngoài trời được hoàn thành đúng dịp Đại lễ 1000 năm đầy ý nghĩa ấy. Các bộ tiểu thuyết lịch sử của tác giả Nguyễn Xuân Khánh và Hoàng Quốc Hải cũng là những thành tựu đáng nhớ trong thời kỳ này. Tập thơ tuyển của tác giả Dương Kiều Minh, vở thanh xướng kịch (oratorio) “Hoa Lư - Thăng Long” của nhạc sĩ Doãn Nho, tập sách “Ảnh nghệ thuật Thăng Long - Hà Nội” của nghệ sĩ Hoàng Kim Đáng, tác phẩm “Thiên đô” của họa sĩ Nguyễn Đình Huống, bộ sách biên khảo “Hội làng Thăng Long - Hà Nội” gồm 3 tập, do soạn giả Lê Trung Vũ chủ biên và “Nghệ thuật múa cổ truyền và hiện đại” của tác giả Lê Ngọc Canh… đều là những tác phẩm và công trình có chất lượng cao, thể hiện tâm huyết của văn nghệ sĩ Thủ đô đối với Thăng Long - Hà Nội 1000 năm tuổi.
Các trại sáng tác được mở liên tục hơn, với các chuyên đề đi sâu vào các chủ đề lịch sử và văn hóa Thăng Long - Hà Nội; các cuộc hội thảo khoa học và đi thực tế cũng tập trung vào các vấn đề trọng tâm của Thăng Long – Hà Nội 1000 năm. Thành phố cũng ban hành các văn bản mới, quy định việc mở rộng ký hợp đồng đặt hàng các công trình và sản phẩm chất lượng cao, không hạn chế khối lượng và giá trị đầu tư, nếu cần thì cho phép ký hợp đồng theo giá thỏa thuận, không cần đấu thầu đối với các tác phẩm và công trình mang giá trị sáng tạo.
Những bước đi đột phá ấy đã đem lại nhiều kết quả đầy thuyết phục: Tượng đài Thánh Gióng ở trên đỉnh Sóc Sơn và Con đường gốm sứ dọc đê sông Hồng là hai tác phẩm hoành tráng ở ngoài trời được hoàn thành đúng dịp Đại lễ 1000 năm đầy ý nghĩa ấy. Các bộ tiểu thuyết lịch sử của tác giả Nguyễn Xuân Khánh và Hoàng Quốc Hải cũng là những thành tựu đáng nhớ trong thời kỳ này. Tập thơ tuyển của tác giả Dương Kiều Minh, vở thanh xướng kịch (oratorio) “Hoa Lư - Thăng Long” của nhạc sĩ Doãn Nho, tập sách “Ảnh nghệ thuật Thăng Long - Hà Nội” của nghệ sĩ Hoàng Kim Đáng, tác phẩm “Thiên đô” của họa sĩ Nguyễn Đình Huống, bộ sách biên khảo “Hội làng Thăng Long - Hà Nội” gồm 3 tập, do soạn giả Lê Trung Vũ chủ biên và “Nghệ thuật múa cổ truyền và hiện đại” của tác giả Lê Ngọc Canh… đều là những tác phẩm và công trình có chất lượng cao, thể hiện tâm huyết của văn nghệ sĩ Thủ đô đối với Thăng Long - Hà Nội 1000 năm tuổi.
Sau những dấu ấn đáng nhớ ấy, chúng ta bước sang một thời kỳ mới mà chúng ta hay gọi vui là “Thời kỳ hậu 1000 năm Thăng Long”. Tiếp nối giai đoạn trước, sức sống mãnh liệt và tính đa dạng của các thành tựu VHNT hoàn toàn được minh chứng qua các tác phẩm được trình làng ngay sau đó.
Điểm qua các tác phẩm được trao Giải thưởng VHNT Thủ đô năm 2012, chúng ta vui mừng thấy nhiều tên tuổi quen thuộc với VHNT Thủ đô vẫn sáng tác đều và có nhiều thành tựu, đơn cử như nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ với tập truyện “Thành phố đi vắng”, nhà văn Tạ Duy Anh với tập truyện “Lãng du”, nhà thơ Vũ Quần Phương với tập sách bình thơ và thẩm định thơ. Về Sân khấu, năm 2012 có các vở diễn gây tiếng vang là “Những gương mặt thấp thoáng”, vở kịch về đề tài xã hội hiện đại của Nhà hát Kịch Hà Nội (kịch bản Xuân Đức, đạo diễn Doãn Hoàng Giang) và “Linh thiêng hai tiếng đồng bào”, múa rối nước của Nhà hát Múa rối Thăng Long (kịch bản của Hoàng Tuấn và Đặng Tiến, âm nhạc của Đặng Hữu Phúc, lời bình của TS Phạm Quang Long).
Về Điêu khắc, có tượng đài “Khâm Thiên căm thù, bất khuất” của Nguyễn Tự, được dựng lên ở Khu tưởng niệm phố Khâm Thiên đúng 40 năm sau ngày Khâm Thiên bị B.52 hủy diệt trong trận “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12/1972. Về Điện ảnh, có tác phẩm “Ngôi nhà 30 liệt sĩ” (biên kịch và đạo diễn NSND Lê Thi), miêu tả đầy cảm xúc về các thế hệ chiến sĩ và nghệ sĩ, đã từ ngôi nhà số 17 phố Lý Nam Đế lên đường ra trận và không bao giờ trở về. Về đề tài lịch sử Điện ảnh, năm đó còn có cả tác phẩm “Phật hoàng Trần Nhân Tông”, phim tài liệu nghệ thuật tái hiện lại cuộc đời và sự nghiệp của đức vua Trần Nhân Tông và còn cố gắng đi sâu vào diễn giải nội dung căn bản trong tư tưởng Thiền của Người.
Điểm qua các tác phẩm được trao Giải thưởng VHNT Thủ đô năm 2012, chúng ta vui mừng thấy nhiều tên tuổi quen thuộc với VHNT Thủ đô vẫn sáng tác đều và có nhiều thành tựu, đơn cử như nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ với tập truyện “Thành phố đi vắng”, nhà văn Tạ Duy Anh với tập truyện “Lãng du”, nhà thơ Vũ Quần Phương với tập sách bình thơ và thẩm định thơ. Về Sân khấu, năm 2012 có các vở diễn gây tiếng vang là “Những gương mặt thấp thoáng”, vở kịch về đề tài xã hội hiện đại của Nhà hát Kịch Hà Nội (kịch bản Xuân Đức, đạo diễn Doãn Hoàng Giang) và “Linh thiêng hai tiếng đồng bào”, múa rối nước của Nhà hát Múa rối Thăng Long (kịch bản của Hoàng Tuấn và Đặng Tiến, âm nhạc của Đặng Hữu Phúc, lời bình của TS Phạm Quang Long).
Về Điêu khắc, có tượng đài “Khâm Thiên căm thù, bất khuất” của Nguyễn Tự, được dựng lên ở Khu tưởng niệm phố Khâm Thiên đúng 40 năm sau ngày Khâm Thiên bị B.52 hủy diệt trong trận “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12/1972. Về Điện ảnh, có tác phẩm “Ngôi nhà 30 liệt sĩ” (biên kịch và đạo diễn NSND Lê Thi), miêu tả đầy cảm xúc về các thế hệ chiến sĩ và nghệ sĩ, đã từ ngôi nhà số 17 phố Lý Nam Đế lên đường ra trận và không bao giờ trở về. Về đề tài lịch sử Điện ảnh, năm đó còn có cả tác phẩm “Phật hoàng Trần Nhân Tông”, phim tài liệu nghệ thuật tái hiện lại cuộc đời và sự nghiệp của đức vua Trần Nhân Tông và còn cố gắng đi sâu vào diễn giải nội dung căn bản trong tư tưởng Thiền của Người.
Những năm sau đó, hướng tới Kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nội (1966 - 2016), văn nghệ sĩ Thủ đô đã tạo ra thêm nhiều tác phẩm có chiều sâu tư duy và tầm vóc nhân văn sâu sắc, xứng đáng với bề dày 50 năm lịch sử của nhiều thế hệ văn nghệ sĩ vinh dự đứng trong đội ngũ sáng tạo vẻ vang của Thủ đô. Năm 2016 đã đánh dấu bằng nhiều tác phẩm có chất lượng được đánh giá cao và được tặng Giải thưởng VHNT Thủ đô nhân 50 năm thành lập Hội: Tập biên khảo đồ sộ “Thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân 1975 - 2015” của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, đã tổng kết khá công phu toàn bộ các gương mặt thơ Việt Nam đương đại, cả ở trong nước và cả ở hải ngoại, lần đầu tiên có cả phần đánh giá và trích dẫn các nhà thơ sống trong các vùng đô thị miền Nam 1954 - 1975 và sau này sống ở nước ngoài (Pháp, Mỹ, Canada, Úc…).
Về Điện ảnh, có bộ phim tài liệu nhựa “30 tháng Tư, ngày thống nhất” (biên kịch Lê Thi, Phạm Minh Lợi, quay phim Vũ Trọng Quảng). Thông qua các nhân chứng lịch sử từ hai phía, các tác giả đã cho thấy một cái nhìn trung thực, khách quan khi nhìn lại 40 năm ngày thống nhất đất nước và các bài học lịch sử cần đúc rút. Một cuốn phim tư liệu nghệ thuật thú vị nữa là phim “Lang thang như đám mây trời” (biên kịch Lương Đức, đạo diễn Trịnh Quang Tùng, quay phim Dương Văn Huy), đặc tả chân dung nhà văn hóa Hữu Ngọc, người đã suốt 70 năm làm công tác nghiên cứu và quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, đã viết hơn 30 đầu sách giá trị bằng các thứ tiếng Pháp, Anh và Đức để bạn bè nước ngoài hiểu sâu hơn về văn hóa Việt Nam. Nay đã cận kề tuổi 100, ông vẫn cứ “lang thang như đám mây trời”, lúc ở trong nước, lúc ra nước ngoài, say mê và đầy sảng khoái, hào hứng với công việc thú vị và hữu ích của mình. Về Âm nhạc, có một tác phẩm thuộc thể loại romance trích từ opera, trên nền nhạc piano của nhạc sĩ Ngô Quốc Tính “Huyền diệu biển”, được đánh giá cao vì tạo được hiệu ứng thẩm mỹ hài hòa, lời và nhạc hòa quyện, tôn tạo cho nhau khi biểu diễn. Hội Kiến trúc sư Hà Nội thì được vinh danh với đồ án thiết kế “Quy hoạch chung thị xã Sơn Tây”, một đồ án công phu và khá hoàn chỉnh, mang tính quy hoạch định hướng cho một thị xã có truyền thống lịch sử văn hóa xứ Đoài vừa cổ kính vừa hiện đại (các tác giả thiết kế: KTS Lưu Hồng Quang và KTS Lê Thị Thu Hà), là một đô thị trọng điểm đang trên đà khởi sắc và phát triển, với quy mô 20 vạn dân trong chùm đô thị sinh thái có tính chiến lược ở phía Tây Thủ đô. Về tác phẩm Mỹ thuật, có “Giấc mơ Long Biên”, tranh sơn mài của họa sĩ Trần Văn Ninh, một giấc mơ đẹp muốn được bằng tâm linh và màu sắc hội họa, lưu giữ lại những con phố cổ, cây cầu Long Biên, những tán cây cổ thụ, những ngõ nhỏ thân quen đầm ấm của Hà Nội thân thương, cho dù đã trải qua bao nhiêu thăng trầm khắc nghiệt của thời gian và biến động lịch sử. Về Sân khấu, có vở chèo “Nàng thứ phi Đặng Thúy Hạnh” (kịch bản Nguyễn Toàn Thắng, chuyển thể chèo Xuân Hanh, đạo diễn Doãn Hoàng Giang), đã đạt huy chương Vàng Liên hoan Nghệ thuật Chèo toàn quốc 2016. Về múa rối, có vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, là vở rối cạn do NSƯT Nguyễn Văn Tiến chuyển thể thành công từ kịch bản của Lưu Quang Vũ, đạo diễn Lê Chí Kiên), đã đoạt Giải “Tiết mục Rối thử nghiệm xuất sắc nhất” tại Liên hoan Sân khấu Thử nghiệm Quốc tế 2016. Về Văn nghệ dân gian, có tập nghiên cứu “Làng ven đô và sự biến đổi văn hóa”, của các tác giả Nguyễn Thị Phương Châm và Đỗ Thị Lan. Thông qua thực tiễn biến đổi đa dạng về văn hóa và nếp sống của làng Xuân Đỉnh, một làng quê ven đô, các tác giả đã khái quát được các xu thế chuyển hóa và thích ứng linh hoạt của người dân khi bước vào quá trình đô thị hóa, trong đó có việc tái cấu trúc các nét văn hóa truyền thống và du nhập thêm các yếu tố mới, hiện đại, đồng thời làm rõ được sự chủ động thích nghi của người dân trước mọi thách thức phức tạp, trong cả quá trình hội nhập.
Về Điện ảnh, có bộ phim tài liệu nhựa “30 tháng Tư, ngày thống nhất” (biên kịch Lê Thi, Phạm Minh Lợi, quay phim Vũ Trọng Quảng). Thông qua các nhân chứng lịch sử từ hai phía, các tác giả đã cho thấy một cái nhìn trung thực, khách quan khi nhìn lại 40 năm ngày thống nhất đất nước và các bài học lịch sử cần đúc rút. Một cuốn phim tư liệu nghệ thuật thú vị nữa là phim “Lang thang như đám mây trời” (biên kịch Lương Đức, đạo diễn Trịnh Quang Tùng, quay phim Dương Văn Huy), đặc tả chân dung nhà văn hóa Hữu Ngọc, người đã suốt 70 năm làm công tác nghiên cứu và quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, đã viết hơn 30 đầu sách giá trị bằng các thứ tiếng Pháp, Anh và Đức để bạn bè nước ngoài hiểu sâu hơn về văn hóa Việt Nam. Nay đã cận kề tuổi 100, ông vẫn cứ “lang thang như đám mây trời”, lúc ở trong nước, lúc ra nước ngoài, say mê và đầy sảng khoái, hào hứng với công việc thú vị và hữu ích của mình. Về Âm nhạc, có một tác phẩm thuộc thể loại romance trích từ opera, trên nền nhạc piano của nhạc sĩ Ngô Quốc Tính “Huyền diệu biển”, được đánh giá cao vì tạo được hiệu ứng thẩm mỹ hài hòa, lời và nhạc hòa quyện, tôn tạo cho nhau khi biểu diễn. Hội Kiến trúc sư Hà Nội thì được vinh danh với đồ án thiết kế “Quy hoạch chung thị xã Sơn Tây”, một đồ án công phu và khá hoàn chỉnh, mang tính quy hoạch định hướng cho một thị xã có truyền thống lịch sử văn hóa xứ Đoài vừa cổ kính vừa hiện đại (các tác giả thiết kế: KTS Lưu Hồng Quang và KTS Lê Thị Thu Hà), là một đô thị trọng điểm đang trên đà khởi sắc và phát triển, với quy mô 20 vạn dân trong chùm đô thị sinh thái có tính chiến lược ở phía Tây Thủ đô. Về tác phẩm Mỹ thuật, có “Giấc mơ Long Biên”, tranh sơn mài của họa sĩ Trần Văn Ninh, một giấc mơ đẹp muốn được bằng tâm linh và màu sắc hội họa, lưu giữ lại những con phố cổ, cây cầu Long Biên, những tán cây cổ thụ, những ngõ nhỏ thân quen đầm ấm của Hà Nội thân thương, cho dù đã trải qua bao nhiêu thăng trầm khắc nghiệt của thời gian và biến động lịch sử. Về Sân khấu, có vở chèo “Nàng thứ phi Đặng Thúy Hạnh” (kịch bản Nguyễn Toàn Thắng, chuyển thể chèo Xuân Hanh, đạo diễn Doãn Hoàng Giang), đã đạt huy chương Vàng Liên hoan Nghệ thuật Chèo toàn quốc 2016. Về múa rối, có vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, là vở rối cạn do NSƯT Nguyễn Văn Tiến chuyển thể thành công từ kịch bản của Lưu Quang Vũ, đạo diễn Lê Chí Kiên), đã đoạt Giải “Tiết mục Rối thử nghiệm xuất sắc nhất” tại Liên hoan Sân khấu Thử nghiệm Quốc tế 2016. Về Văn nghệ dân gian, có tập nghiên cứu “Làng ven đô và sự biến đổi văn hóa”, của các tác giả Nguyễn Thị Phương Châm và Đỗ Thị Lan. Thông qua thực tiễn biến đổi đa dạng về văn hóa và nếp sống của làng Xuân Đỉnh, một làng quê ven đô, các tác giả đã khái quát được các xu thế chuyển hóa và thích ứng linh hoạt của người dân khi bước vào quá trình đô thị hóa, trong đó có việc tái cấu trúc các nét văn hóa truyền thống và du nhập thêm các yếu tố mới, hiện đại, đồng thời làm rõ được sự chủ động thích nghi của người dân trước mọi thách thức phức tạp, trong cả quá trình hội nhập.
Đến năm 2018, Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội lại tiếp tục phát hiện, vinh danh và trao giải thưởng cho nhiều tác phẩm xứng đáng, nối tiếp theo truyền thống đã được khẳng định qua 50 năm VHNT vẻ vang của Thủ đô. Đơn cử như, về Văn học, có 2 tác phẩm được đánh giá cao: Tiểu thuyết “Vỡ vụn” và “Cuộc vuông tròn” - bộ tác phẩm liên hoàn của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn và tập hồi ức - biên khảo “Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 - 1954” của nhà văn Lê Văn Ba, đã làm sống dậy cả một thời đại văn học sôi động và hào hùng của Hà Nội trong 8 năm tạm bị giặc chiếm, trước khi Thủ đô được giải phóng.
Về Âm nhạc, có công trình nghiên cứu về âm nhạc “Đây Đông Đô, đây Thăng Long, đây Hà Nội” của Nguyễn Thị Minh Châu được đánh giá cao về những nhận định khái quát mang tính hệ thống trong học thuật. Các nghệ sĩ múa giành Giải thưởng với tiết mục “Lung linh phố cổ” (của Trần Văn Quý và Nguyễn Tố Linh), một tác phẩm thể nghiệm đưa nhạc hip-hop kết hợp vào với phong cách múa đương đại khá nhuần nhuyễn. Về Kiến trúc, có tổ hợp Nhà ở xã hội ở Khu đô thị mới Kiến Hưng Hà Đông, với đặc điểm là nhà ở dành cho người thu nhập thấp, nhưng vẫn đảm bảo được các tiêu chí kỹ thuật kết hợp với công năng sử dụng và tiêu chí mỹ thuật khá thuyết phục, có ý nghĩa nhân văn nổi bật.
Có thể nói, trong 10 năm gần đây nhất của thời kỳ “hậu 1000 năm Thăng Long”, các sáng tác (về văn, thơ, nhạc, họa, nhiếp ảnh, sân khấu, múa…) cũng như các công trình sáng tạo (về Điện ảnh, Kiến trúc, Văn nghệ dân gian…) đều vẫn được các văn nghệ sĩ Hà Nội tiếp tục phát huy được thế mạnh của mình, giành mọi tâm huyết và mọi suy nghĩ sâu sắc, với hoài bão lớn và ý thức trách nhiệm công dân cao, để biến các ý đồ và dự thảo của bản thân dần hóa thành hiện thực.
Bên cạnh các sáng tác mới, anh chị em văn nghệ sĩ Hà Nội cũng sát cánh cùng các giáo sư, các nhà nghiên cứu khoa học, cộng tác chặt chẽ với Nhà xuất bản Hà Nội để hoàn thành Đề án biên soạn và xuất bản 150 đầu sách tiêu biểu trong Tủ sách “Thăng Long 1000 năm văn hiến”, gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 đã kết thúc năm 2011 và Giai đoạn 2 kế tiếp cũng vừa hoàn thành và mới được tổng kết vào tháng 12/2019, là một Đề án lớn do Thành ủy và UBND Thành phố Hà Nội chủ trì và cấp vốn để hoàn thành cho cả bộ sách lớn, có hơn 150 đầu sách dày dặn, được tổ chức biên soạn công phu và có tính hệ thống cao này.
Năm 2020 đã là niên đại 1010 năm Thăng Long - Hà Nội. Trước mắt, các văn nghệ sĩ Hà Nội đang nỗ lực bắt tay vào xây dựng tiếp cho mình một Chương trình hoạt động sáng tạo phong phú, công phu và bài bản hơn nữa cho các thành tựu ấn tượng của thập kỷ kế tiếp: Đó là chuỗi các năm 2020 đến 2030 - mốc son mới, hướng tới Kỷ niệm 1020 năm xây dựng Thăng Long - Hà Nội.