Hoàng Cầm - "Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc"
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 14:57, 24/04/2020
Nhà thơ Hoàng Cầm bên dòng sông Đuống. Ảnh: Nguyễn Đình Toán
Cái ấn tượng ban đầu về Hoàng Cầm vẫn là những câu thơ đầu trong bài thơ Bên kia sông Đuống bám riết tâm trí tôi thuở nào. Mỗi lần đi công tác xuống Phủ Thuận, đứng ở bên này phà Hồ lại nghe man mác nỗi lòng thi nhân đi kháng chiến nhớ quê. Cái mạch toàn bài, nhớ đã đành, nhưng: “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong - Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp” cứ ngân nga, ngân nga khi tôi trở lại làng Mái - một làng tranh nổi tiếng xứ Bắc nằm bên bờ sông quê thi sĩ Hoàng Cầm.
Gần 70 năm qua, bài thơ Bên kia sông Đuống của nhà thơ Hoàng Cầm được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến và chép tay truyền đọc. Ngay cả thời vượt Trường Sơn chống Mỹ, bài thơ vẫn nằm trong hành trang người chiến sĩ trên những chặng đường hành quân. Nhưng có lẽ ít người hiểu được bài thơ dài này đã được nhà văn Nguyên Hồng trân trọng như thế nào? Vào khoảng năm 1947-1948, nhà văn Nguyên Hồng là chủ bút báo Quân Việt Bắc đóng ở xóm Thượng - Phú Bình (Thái Nguyên), cùng với nhà thơ Hoàng Cầm lúc đó phụ trách Đội Văn nghệ Tuyên truyền khu 12. Nhà văn Nguyên Hồng sau một ngày làm “công việc bếp núc” của tòa soạn đã ngủ thiếp đi chợt có ai lay mình dậy: “Kìa, Hoàng Cầm đấy à, có việc gì thế!”. Nhà thơ Hoàng Cầm tay cầm mảnh giấy, khuôn mặt hốc hác sau một đêm mất ngủ nhưng cặp mắt ánh lên vẻ nhẹ nhõm, thư thái: “Anh Nguyên Hồng, đêm qua cán bộ và nhân dân làng tôi ở Thuận Thành lên báo cáo. Giặc Pháp chiếm hết khu Nam phần Bắc Ninh rồi, kể cả cái làng Nguyệt Cầu mà hồi nào anh chạy giặc ở nhờ nhà ông Ngọc Giao ấy! Mình xúc động viết bài thơ này đọc cho Nguyên Hồng nghe nhé”.
Nghe giọng đọc trầm ấm của Hoàng Cầm: Em ơi buồn làm chi? - Anh đưa em về bên kia sông Đuống... tự nhiên nhà văn Nguyên Hồng ôm mặt khóc nức nở. Ông giật mình thổn thức, nước mắt giàn giụa... Nhà thơ Hoàng Cầm biết tính ông, cứ đọc... cho đến hết bài thơ. Còn nhà văn Nguyên Hồng cứ khóc... khi những âm hưởng của bài thơ kết thúc từ lâu. Rồi ông lặng lẽ rút ra 4-5 tờ giấy trắng tinh (hồi này giấy rất hiếm, đến ngay nhà văn cũng chỉ dám dùng giấy giang Hoàng Văn Thụ chép bản thảo của mình mà thôi!): “Hoàng Cầm này, ông chép cho tôi ba bản thật sạch sẽ, bài thơ này rất cần cho nhiều người đọc... nhất là các chiến sĩ ta”.
Khoảng 2 tháng sau, trong lúc nhà thơ Hoàng Cầm đang hướng dẫn cho diễn viên tập vở kịch Đứa con nuôi thì nhà văn Nguyên Hồng xuất hiện ở bậc cửa, tay cầm tờ báo Cứu Quốc khổ nhỡ (do nhà nghiên cứu văn học Như Phong và nhà văn Tô Hoài phụ trách): “Này Hoàng Cầm, bài của ông tôi gửi, giờ báo in đây!”. Nhà thơ Hoàng Cầm run run nhận tờ báo từ tay Nguyên Hồng. Bao nhiêu tâm sự trào dâng về quê hương ông, về cái làng Lạc Thổ (Thuận Thành) phía bên kia sông Đuống, về các cô gái môi trầu cắn chỉ, về tranh làng Hồ: Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp... đang bị giặc Pháp giày xéo dưới xuôi kia vẫn không thể làm hoen ố cái hồn dân tộc phập phồng trên nền giấy bản lem nhem, dưới những con chữ mòn vẹt kia. Và nhà thơ Hoàng Cầm đến tận bây giờ cũng không quên được nhiệt tâm của nhà văn Nguyên Hồng đối với ông là tác giả bài thơ Bên kia sông Đuống ngay từ những ngày đầu tiên ấy.
Có lẽ khởi nguồn về lại Kinh Bắc thượng của nhà thơ Hoàng Cầm là chuyến đi về đất Lục Nam do Phòng Giáo dục huyện mời. Tôi được con trai nhà thơ Hoàng Cầm - anh Hoàng Kỳ - nhờ đi đón nhà thơ từ Hà Nội. Lâu không gặp ông nhưng khi nhìn thấy nhà thơ còn hoạt bát, nhanh nhẹn tinh nhanh chúng tôi mừng thầm. Dọc đường nhìn phong cảnh đồi núi trung du với những rặng vải thiều lúp xúp ở hai bên đường, nom ông xúc động lắm. Buổi tổ chức nhà thơ Hoàng Cầm nói chuyện thân mật, ấm cúng. Cũng có hoa tươi, micrô loa phóng thanh, cũng tay bắt mặt mừng những tưởng thân nhau đã từ lâu... nhưng điều đáng bàn ở đây không còn sự cách biệt giữa chủ - khách. Người đến nghe nhà thơ nói chuyện đông nghịt, phần vì cảm tình với thơ ông, nay mới được thưởng thức hoặc do “chuộng lạ”... đến xem mặt nhà thơ. Tôi nghe tiếng giọng đọc thơ Hoàng Cầm từ lâu, nay mới được biết tường tận. Nhà thơ có giọng đọc thơ thật truyền cảm, trầm ấm, mê hoặc, quyến rũ, khó có thể trộn lẫn được. Vốn là trưởng đoàn văn nghệ khu 12 đã lâu, là người viết nhiều kịch thơ nổi tiếng trong đó có vở Kiều Loan, Lên đường, Hận Nam Quan... nức tiếng một thời với giọng đọc thơ “giời cho” làm cho cuộc giao lưu với nhà thơ Hoàng Cầm và bạn đọc ngày ấy còn để lại dư âm rất đậm trong tôi nhiều năm sau đó.
Âm hưởng chủ đạo trong toàn bộ thi phẩm Hoàng Cầm bắt nguồn từ yếu tố nữ tính. Chẳng hiểu có phải ông thừa hưởng từ người mẹ (vốn là liền chị quan họ) hoặc sự kết nối giữa cha và mẹ muộn mằn trong sự ra đời của ông, hay mối tình thời thơ dại với chị... tạo nên sự khắc khoải nuối tiếc trong thơ ông dai dẳng như một tiền kiếp định mệnh. Hoặc để dịu lòng những ngày tháng cam go của ngộ nhận lầm lẫn, mà ông đắm vào hoài niệm một không gian đằm thắm quê hương, một thời gian đằng đẵng yêu thương? Phải chăng là thế, khi xứ Kinh Bắc hiện ra an ủi ông, nâng đỡ ông với tất cả chiều kích của hội hè đình đám, chùa chiền, lăng tẩm với “Sương Cầu Lim”, “Khói Yên Thế“, với “Trai đời Trần“, “Gái Hậu Lê“, “Nước sông Thương”.... và biến dạng từ vô thức tiềm thức của ảo mê trong “Lá diêu bông”, “Cầu bà Sấm“, “Bến cô Mưa”, “Cỏ Bồng Thi”.
Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc - Hoàng Cầm mãi vào tuổi bảy mươi mới có dịp trở lại vùng đất xưa khi đoàn chúng tôi thực hiện một bộ phim về ông. Trường đoạn đầu tiên vẫn là những cảnh quay về sông Đuống “xanh xanh bãi mía bờ dâu”, về làng Lạc Thổ, quê cha của nhà thơ nằm yên tĩnh cạnh phố Hồ phủ Thuận. Lại nhớ cái đêm nằm cạnh ông - trên quê ông mà không sao ngủ được. Hoàng Cầm lay tôi trở dậy tâm sự, mắt ông đắm vào xa xăm. “Tôi ngờ rằng có lẽ Bên kia sông Đuống chỉ sống được chừng 50 năm nữa vì giá trị lịch sử của nó”. Cũng thật bất ngờ khi ông tự thú như vậy. Tôi hỏi ông: “Sao lại thế nhỉ?. Khái niệm quê hương bao giờ cũng bền chặt lắm cơ mà!”. Ông bảo: “Quê hương trong bài thơ này gắn bó với những người đi chiến đấu bảo vệ nó, thời thế đã thay đổi, nếu giáo dục không sâu sắc toàn diện thì...” Hoàng Cầm ngừng lời, và tôi cũng không hỏi thêm ông nhưng vẫn thầm lặng tin rằng: Khi mỗi con người Việt Nam còn có một quê hương để nhớ thì bài thơ Bên kia sông Đuống vẫn còn là ngọn lửa cháy sáng trong tâm trí mỗi người. Im lặng hồi lâu, ông tiếp lời: “Tôi tâm đắc Lá diêu bông hơn. Hạnh phúc là điều khó thực hiện cho đời sống mỗi con người, nhưng có khi trong mất mát lại có cái được đấy, nó buộc ta phải trân trọng gìn giữ, không để tuột mất. Có khi phải đánh đổi cả một đời”. Ngoài kia sông Đuống vẫn chảy, sóng dào dạt vỗ vào chân đê. Mùa này là mùa nước lặng cơ mà. Chắc là gió thổi nhiều, nhất là bên hữu ngạn sông. Và cái Lá diêu bông chập chờn trong giấc ngủ, ảo giác này còn day dứt tôi mãi khi nghĩ về sự nổi trôi của phận người, kiếp người.
Yếu tố nữ tính trong thơ Hoàng Cầm (mà ông tự nhận là theo dòng mẫu hệ) chi phối ông cả trong tâm thức lẫn trong hệ lụy đời sống. Những hình ảnh Mẹ - Chị - Em với: Ta ru Em - lớn lên Em đừng tìm Mẹ phía cơn mưa... Em mười hai tuổi tìm theo Chị - qua cầu bà Sấm, bến cô Mưa... ngày Chị bảo Em quên - Em tơ tưởng sao bắt Em đừng nhớ... Em đừng lớn nữa Chị đừng đi... đậm chất dân gian trong vùng nhớ của Hoàng Cầm da diết đắm say hòa quyện với: áo Hai Bà giăng mắc... tượng Quan Âm má ửng bồ quân... hội Gióng giong chiêng - bé em về nằm khoanh lòng mẹ - nghe nhìn muôn năm sau xoa nắn đôi bầu vú lửa - sông dài/ cát bỏng/ nắng hồng hoang... đậm màu huyền sử, huyền thoại vừa gần gũi trong khung cảnh, trong không khí diệu huyền và chân thực Kinh Bắc thấm đậm tình người đất Việt, vừa mở rộng trường liên tưởng khiến tâm trí khó nắm bắt được trọn vẹn những biểu hiện vô thường của đời sống tâm linh con người, buộc ta phải ngẫm ngợi và suy tưởng miên man về một vùng quê, một vùng văn hóa đằm thắm và sâu xa đến thế! Hoàng Cầm vùng vẫy trong mê giác, ông có khả năng đồng nhất cõi thực - cõi ảo mà ông nguyện đi đến cùng và đó là nghệ thuật. Cho nên, trong đời sống thường ngày ông ngơ ngác là phải. Kiếp thi sĩ là vậy! Hoàng Cầm tự biết và chấp nhận “nghiệp chướng” và để lại dòng thơ đậm cảm thức Kinh Bắc.