Chuyện người Hà Nội

Lê Hoan: Từ oan khuất lịch sử đến chân dung một nhà yêu nước

PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn 16:17 10/12/2025

Lê Hoan (1856 - 1915) còn có tên Lê Tôn, tự Ưng Chi, hiệu Mục Đình, thụy Vân Nghị, sinh ở thôn Cự Lộc, xã Nhân Mục, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc TP Hà Nội). Người đời biết ông trên tư cách Tổng đốc các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương; Thượng thư Bộ Binh kiêm Hữu đô Ngự sử viện Đô sát; từng giữ chức Khâm sai đại thần Bắc Kỳ. Tuy nhiên, suốt một thế kỷ, Lê Hoan thường bị quy kết là “tay sai cho Pháp”, “bán nước cầu vinh”, hoặc "kẻ đàn áp cuộc khởi nghĩa Đề Thám". Chân dung thực của ông vì thế chìm khuất, bị nhìn bằng con mắt ngờ vực. Điều đó có lý bởi nhiều hoạt động yêu nước của ông phải giữ bí mật và chính quyền thực dân cũng không muốn phơi bày những điều bất lợi cho họ. Nhờ công sức nghiên cứu của học giả trong và ngoài nước, hình ảnh quan chức - nhà văn yêu nước ngày càng rõ nét hơn.

Lê Hoan sinh trưởng trong một gia đình quan lại khoa bảng: các cụ tổ nhiều đời được phong Hàn Lâm Viện thị giảng học sĩ, cụ Lê Trọng Điển là tiến sĩ khoa Ất Mùi năm Cảnh Hưng 36 (1775). Mồ côi mẹ từ năm 13 tuổi, cha là Lê Cẩn (1823-1893) làm quan đến chức Bang tá Hải Dương và Hà Đông, được thăng thưởng Gia nghị Đại phu và Thái thường Tự khanh. Từ nhỏ, Lê Hoan đã ham học, yêu nước. Khi Pháp chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất (1873) ông đỗ Tú tài, rồi bỏ việc văn chương sang học binh thư, võ nghệ, lấy tên Lưu Tôn và lập nhóm Bồ Đề chống Pháp.

Công sự phòng thủ của Đề Thám. (Ảnh tư liệu)

Từ năm 25 tuổi (1881), ông tham gia nghĩa quân của Bố chánh Nguyễn Cao ở vùng Kinh Bắc, có lúc theo Tổng thống quân vụ Hoàng Kế Viêm, phối hợp với quân Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc chống Pháp ở Hà Nội - Sơn Tây. Ông tham gia trận đánh ở Cầu Giấy, liên quan đến cái chết của viên chỉ huy - đại tá Henri Rivière và được phong Tinh binh Chánh đội trưởng. Năm sau, do mâu thuẫn với quân Cờ đen, ông lên Lạng Sơn, đổi tên thành Lê Hoan. Tại đây, ông cùng các thủ lĩnh Đề Kiến, Thống Luận, Tán Địch, Tán Thuật, Thượng Phúc hợp tác với bộ phận quân Thanh đánh chiếm Lạng Sơn. Sau Hòa ước Thiên Tân (1884), phong trào tan rã.

Năm 1885, ông được Nguyễn Hữu Độ bổ làm Thông phán, Án sát rồi Tuần phủ Hưng Yên, cai quản cả vùng Bãi Sậy - Bần Yên Nhân, nơi nghĩa quân Tán Thuật hoạt động. Vì mối quan hệ thân tín, ông từng báo mật cho Tán Thuật biết kế hoạch vây bắt, giúp Tán Thuật kịp trốn sang Trung Quốc (1890). Năm 1892, ông được thăng chức Bố chánh Sơn Tây rồi Tuần phủ Hưng Hóa kiêm Tam tuyên Tiểu phủ sứ, coi sóc ba tỉnh Sơn Tây - Hưng Hóa - Tuyên Quang và bảo lãnh cho Đề Kiều làm Lãnh binh Hưng Hóa. Khi ông chuyển đi làm Tổng đốc Bắc Ninh thì Lãnh binh Kiều cũng xin từ chức. Ở Hưng Hóa, ông còn có công tu sửa, xây dựng và khắc văn bia ở khu Văn Miếu…

Trong khoảng thời gian từ 1892-1897, Lê Hoan được lệnh phối hợp cùng Đại tá Pháp Galliéni mở hai chiến dịch nhằm buộc Hoàng Hoa Thám ký thỏa ước ngừng bắn. Người Pháp nghi ngờ ông thông đồng với nghĩa quân Yên Thế. Sự thực, ngay từ năm 1892, Lê Hoan từng viết thư cho Đề Kiều: “Lúc này chống với quân Pháp phỏng có ích gì, vì họ mạnh hơn. Chúng ta hãy làm như đã từ bỏ sự nghiệp của người nước Nam mà chỉ thân thiện với Pháp thôi… Thời cơ lúc này chưa đến. Tốt hơn hết là hãy ru ngủ chúng bằng tình bạn giả vờ của chúng ta”.

Bức thư trên lọt vào tay viên chỉ huy quân đội Pháp Pennequin, khiến một bộ phận quan chức và báo chí Pháp đòi xét xử ông. Kết quả, ông bị giáng hai cấp, chuyển đi nơi khác.

Bị người Pháp luôn ngờ vực, song chính điều đó mà Lê Hoan lại được triều đình Huế đánh giá khác. Năm 1895, vua Thành Thái phong ông là Tự Thiện Đại phu, Binh Bộ Thượng thư kiêm Đô sát viện Hữu Đô ngự sử, tước Phú Hoàn Nam. Năm 1902, ông được giao làm Tuần phủ Hưng Yên, đứng ra xây dựng lại Văn Miếu hàng tỉnh; năm 1903, chuyển sang làm Tổng đốc Hải Dương; năm 1905, được giao kiêm Đổng lý quân vụ Đại thần.

Năm 1908, vụ “Hà thành đầu độc” (27/6/1908) làm dấy lên cáo buộc mới. Báo cáo mật của Công sứ Lạng Sơn Du Vaure gửi Thống sứ Simoni ở Hà Nội nêu việc bắt thủ lĩnh dưới trướng Đề Thám là Dương Băng Úc cùng 14 người, họ khai có nhóm quan lại triều đình chủ mưu, trong đó có vai trò của Lê Hoan. Vụ án được đưa sang Tòa đại hình; báo chí Pháp rầm rộ chỉ trích. Hàng loại các báo lúc bấy giờ như Đông Dương, Phương Đông, Hải Phòng, Tương lai Bắc Kỳ, Nước Pháp Quân sự… đã viết bài lên án ông là kẻ khiêu khích, gây rối loạn; có bài còn đề xuất trừng phạt nặng.

Nhà báo Pháp C. Morice đặt câu hỏi trên Phương Đông (11/10/1896): “Có phải Lê Hoan hoàn toàn trong sạch và nếu như vậy cần công bố rõ ràng kèm theo các chứng cứ. Hay là ông ta có tội, và dựa vào các hoàn cảnh, tội trạng của ông ta có tính chất nghiêm trọng và phải bị trừng trị nặng hơn so với việc hạ bậc”. Từ hồ sơ mật và báo chí, Viện Hàn lâm Khoa học thuộc địa Pháp sau này cũng hạ bút kết tội ông Lê Hoan trong cuốn “Từ điển tác giả”, “Tác phẩm Tổng quát - Cổ điển và Hiện đại về Đông Dương” (1935).

Trái lại, vua Duy Tân đặt niềm tin nơi ông, quyết định bổ ông làm Khâm sai Bắc Kỳ và tấn phong tước Hoàn Nam Tử (1909). Ở vào hoàn cảnh này, Lê Hoan càng cần phải giữ vững vỏ bọc và chứng minh ngoại phạm, đồng thời tỏ ra mẫn cán trong công việc. Tuy vậy, rút cuộc người Pháp vẫn không tin dùng Lê Hoan. Chỉ vài tháng sau khi được giao trọng trách Khâm sai toàn quyền trông coi xứ Bắc Kỳ, ông đã bị phế truất. Sự kiện này đã được tường thuật trên báo La Libre Parole (Paris, 10/4/1910) dưới tựa “La Revocation du Kham-sai Lê Hoan” (Việc cách chức Khâm sai Lê Hoan). Bài báo dẫn lại những nghi ngờ: Khâm sai có thể liên minh với Đề Thám, dùng uy tín và tiền lương để nuôi dưỡng nghĩa quân và kích động dân chống người Pháp.

Cuối năm 1909, mật thám Pháp bắt được Đỗ Văn Huỳnh và Vũ Ngọc Thụy, trong người có thẻ xác nhận là người của Hoàng Hoa Thám và thẻ căn cước được cho là gián điệp của Lê Hoan; hai thẻ này được họ dùng để đi lại giữa Hà Nội và Yên Thế. Dù chưa có đầy đủ bằng chứng xác thực nhưng các nhà thực dân sành sỏi đã phần nào nhận ra mối quan hệ giữa Lê Hoan và phong trào khởi nghĩa miền thượng du Bắc Bộ. Họ hiểu thái độ, tư tưởng và mục đích sâu xa của ông. Việc ông bị cách chức Khâm sai năm 1910 được báo chí Pháp đưa công khai kèm phân tích, nhưng sáu tháng sau, do thiếu bằng chứng, ông được phục chức Tổng đốc Hải Dương. Năm sau, ông đau mắt nặng, về nhà dưỡng bệnh và mất tại số 70 phố Hàng Thâm (nay là Hàng Vải, quận Hoàn Kiếm).

Có thể khẳng định, từ khi còn trẻ đến cuối đời, Lê Hoan luôn thể hiện tinh thần yêu nước chống Pháp. Ông chấp nhận làm quan triều Huế, bề ngoài hợp tác với Pháp để giữ vị thế, nhưng thực tế ông luôn có những hoạt động bí mật với tư cách nội gián - tiếp sức cho nghĩa quân, tổ chức lực lượng chống Pháp và giữ mối liên hệ với Hoàng Hoa Thám. Hành động ấy phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và tình thế của một quan chức sống giữa giai đoạn lịch sử phức tạp.

Một trang trong tài liệu lưu trữ tự bạch của Lê Hoan. Nguồn ảnh: Tia Sáng

Bên cạnh tư cách quan chức, Lê Hoan còn là tác giả văn học tiêu biểu cuối thời trung đại. Ông tham gia trùng tu Văn Miếu, tổ chức thi thơ đề vịnh Kim Vân Kiều (truyện Thanh Tâm Tài Nhân, 1905), viết văn bia, câu đối, biên soạn “Thanh Trì Lê Lưu thị thế phả”… Đặc biệt, ông là tác giả bộ tiểu thuyết chương hồi bằng chữ Hán “Việt Lam tiểu sử” (còn gọi là “Việt Lam xuân thu”, “Hoàng Việt xuân thu”), gồm 3 quyển, 60 hồi, khắc in năm Mậu Thân (1908). Đến nay, giới nghiên cứu đã thống nhất xác định ông là tác giả “Việt Lam tiểu sử”. Văn bản được khắc in năm Mậu Thân (1908) hiện còn 4 bản in và 8 bản chép tay. Chỉ 6 năm sau khi ra đời, tác phẩm được Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch ra chữ Quốc ngữ và in nhiều lần. Năm 2000, tác phẩm được tái bản bởi Hội Khoa học Lịch sử phối hợp NXB Thế giới, đưa vào “Tổng tập văn học Việt Nam” (Tập 8B), vào “Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam” và chương trình giảng dạy văn học trung đại.

Trong lời tựa, Lê Hoan viết: “Mới rồi, từ hòm sách về sử của một gia đình nổi tiếng, tôi tìm được cuốn “Việt Lam xuân thu”. Mở ra xem, thấy tường tận bản sắc anh hùng của Lê Thái Tổ. Khi thời cơ chưa đến thì thuận theo đạo trời, an tâm với mệnh, thương kẻ sĩ, yêu dân lành, giả cách nhún nhường để khỏi nhận chức tước của triều ngụy. Lúc thời cơ tới thì điều binh khiển tướng tiêu diệt giặc Minh, khôi phục nước nhà… Bởi vậy, nhân lúc nhàn rỗi tôi đã mạn phép đem sách ra sửa sang trau chuốt thêm rồi đưa in và công bố, nhằm giúp người đời sau ai muốn biết Lê Thái Tổ sáng nghiệp gian nan vất vả thế nào, có thể lật sách này mà nắm được những nét lớn”.

Lời tựa chất chứa nhiều tâm sự: từ cảnh ngộ “khi thời cơ chưa đến” đến ước vọng “sáng nghiệp” và khát vọng truyền vang tên tuổi dân tộc khắp năm châu. Về nghệ thuật, “Việt Lam tiểu sử " là tiểu thuyết lịch sử chương hồi, xây dựng nhiều hình tượng dựa trên nguyên mẫu Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Hồ Quý Ly… Trên nhiều phương diện khác nhau, tác phẩm còn là đối tượng của nhiều chuyên ngành nghiên cứu văn bản Hán Nôm, văn hóa học, tự sự học, loại hình học, cấu trúc và thể loại. Cùng với những tác phẩm như “Hoan Châu ký”, “Nam triều công nghiệp diễn chí”, “Hoàng Lê nhất thống chí”, “Tây Dương Gia Tô bí lục”, “Hoàng Việt long hưng chí”, “Trùng Quang tâm sử”…, “Việt Lam tiểu sử” giữ vị trí quan trọng trong dòng tiểu thuyết chương hồi chữ Hán và lịch sử văn học dân tộc./.

PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn