Văn minh sông Hồng: Kết tinh và lan tỏa
Trong lịch sử nhân loại, những nền văn minh lớn thường nảy nở bên những dòng sông, nơi hội tụ điều kiện thuận lợi cho sản xuất, sinh sống và giao lưu. Trên thế giới, người ta thường nhắc đến các nền văn minh sông Nile ở Ai Cập, Lưỡng Hà ở Iraq, sông Hằng ở Ấn Độ, Hoàng Hà ở Trung Quốc hay Hy Lạp - La Mã ở Địa Trung Hải. Ở Việt Nam, lưu vực sông Hồng được coi là chiếc nôi của một nền văn minh lâu đời, hình thành từ thời tiền sử và phát triển rực rỡ suốt hàng nghìn năm. Văn minh sông Hồng không chỉ là kết quả của quá trình con người thích nghi và khai thác môi trường, mà còn là một thực thể văn hóa - xã hội có sức lan tỏa rộng, góp phần định hình bản sắc dân tộc và con người Việt Nam.
Sông Hồng - dòng sông mẹ của châu thổ Bắc Bộ bắt nguồn từ vùng núi cao tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), dài hơn 1.200 km nhưng hẹp nhiều ở thượng nguồn. Sau khi luồn lách qua hàng loạt dãy núi cao, lòng sông mở rộng khi cách biển khoảng 300 km, tạo thành đồng bằng châu thổ rộng lớn với hình tam giác, đỉnh là thành phố Việt Trì, cạnh đáy giáp đường bờ biển phía Đông. Trừ một số đỉnh núi sót lại, phần lớn bề mặt đồng bằng khá bằng phẳng, với độ cao trung bình từ 0,4 - 12m so với mực nước biển. Dòng sông chứa nhiều phù sa, cung cấp dưỡng chất nuôi sống đồng bằng. Vùng chảy qua sông hình thành các khu dân cư trù phú từ trung du, đồng bằng đến dải đất thấp ven biển.

Nằm trong vành đai khí hậu cận nhiệt đới, ẩm với hai mùa đông - hè rõ rệt, vùng Bắc Bộ có gió mùa Đông Bắc vào mùa đông, gió Đông Nam vào mùa hè, mặt trời chiếu sáng quanh năm và lượng mưa dồi dào, trung bình 1.700 - 2.400 mm/năm. Đây là những điều kiện thuận lợi cho quần thể động - thực vật phát triển, hình thành hệ sinh thái phổ tạp với nhiều giống loài cùng sinh sống.
Dao động mực nước biển Đông cũng ảnh hưởng đến quá trình cư trú và di cư thời tiền sử. Nghiên cứu địa chất cho thấy vào khoảng 20.000 năm trước, trong giai đoạn băng hà Wurm2, mức nước biển Đông hạ xuống thấp tới -120 m so với hiện nay, tạo ra vùng đất liền rộng lớn nối bán đảo Đông Dương với các đảo ở Đông Nam Á và đảo Hải Nam (Trung Quốc), hình thành những tuyến đường bộ tự nhiên để các nhóm người tiền sử trong vùng di chuyển qua lại. Sau đó, khi chuyển sang thời kỳ biển tiến, mực nước biển dần dâng cao, làm ngập dần các phần đất thềm biển trước đó. Đặc biệt, khoảng 5.000 năm trước, mực nước biển đã cao hơn hiện nay, với độ cao cực đại gần +5 m, làm ngập chìm toàn bộ vùng đồng bằng châu thổ trước đó. Hệ quả tất yếu là cư dân phải chuyển dịch địa bàn lên các vùng cao hơn. Bao quanh đồng bằng sông Hồng là hệ thống núi đồi và vùng trung du bán sơn địa, vừa tạo vành đai che chở, vừa là nơi giao thoa giữa miền núi và đồng bằng, giữa lục địa và biển. Đây là vị trí chiến lược, vừa thuận lợi cho tự cung tự cấp, vừa dễ dàng giao lưu với các vùng khác. Và điều này không phải ngẫu nhiên khi trong tâm thức cư dân đồng bằng ngày nay, những ngọn núi thiêng như Ba Vì, Tam Đảo, Tam Điệp, Yên Tử vẫn được coi là nơi trú ngụ của các vị thần che chở.

Con người xuất hiện ở Bắc Việt Nam từ rất sớm, từ hậu kỳ đá cũ - đá mới sớm, cách nay hàng chục nghìn năm. Trong các sơn khối đá vôi ở Bắc Việt Nam, đã phát hiện nhiều di tích cư trú của người tiền sử như hang động hay mái đá khô thoáng, có ánh nắng trời trong thung lũng núi gần sông, suối. Dấu tích của họ được khẳng định trong các nền văn hóa khảo cổ như Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn, Soi Nhụ, với các di chỉ nổi tiếng được công nhận trong nước và quốc tế như Hang Chổ, Hang Xóm Trại, Mái đá Thần Sa, Mái đá Làng Vành, Tràng An, Con Moong... Nghiên cứu cho thấy họ thường cư trú theo nhóm nhỏ trong mái đá vôi trên sườn thung lũng, khai thác thức ăn từ rừng và nguồn nước xung quanh. Những đống rác bếp chất dày, lẫn với vỏ ốc suối và xương thú nhỏ cho thấy thời gian cư trú lâu, trong đó ốc suối là nguồn chất đạm chủ yếu. Bộ công cụ lao động đi kèm cũng thay đổi theo thời gian, từ cư trú theo mùa, sống hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên đến cư trú lâu dài và canh tác các loại cây củ, rồi trồng lúa và làm lúa nước.
Vào khoảng cuối thời đại đá mới, cách đây khoảng 5.000 năm, trong chu kỳ biển thoái Holocen trung, khi mực nước biển Đông thấp dần, phần đồng bằng châu thổ sông Hồng mở rộng với nhiều nguồn lợi thủy hải sản và đất canh tác trên những bãi phù sa bồi đắp. Việc đi lại thuận tiện hơn dẫn đến sự dịch chuyển mạnh mẽ của các cộng đồng cư dân từ dải đồng bằng hẹp ven núi, đồi vùng trung du, tới các cánh đồng phù sa rộng lớn ven sông. Đây là những lớp cư dân của nền văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun. Tiếp nối truyền thống trước, kết tinh từ quá trình lao động, chế tạo công cụ, vật dụng, đồ trang sức, mỹ nghệ phục vụ nhu cầu làm đẹp và tâm linh, người xưa dần phát triển nền văn minh mang bản sắc riêng, với những thành tựu lớn.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, kết quả của quá trình phát triển lâu dài được xác định qua bằng chứng khảo cổ học: sự chuyển từ cư trú nhóm nhỏ, có quan hệ gần gũi (thị tộc, chòm xóm), cùng canh tác trong những đồng bằng hẹp giữa các thung lũng đá vôi vùng Hòa Bình, Sơn La, Tuyên Quang, đến các cư trú cộng đồng nhiều gia đình tập trung kiểu làng, bản, cùng sản xuất ở chân đồi, núi, bên sông, suối vùng trung du ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây, rồi đến các cộng đồng đông đúc kiểu làng xã trong đồng bằng châu thổ như Gò Vườn Chuối, Đình Tràng (Hà Nội), Thủy Nguyên (Hải Phòng), Mán Bạc (Ninh Bình). Bộ công cụ lao động phát triển với rìu, cuốc bằng đá bán quý mài sắc bén, lưỡi cày, liềm, dao, lưỡi câu, mũi lao bằng đồng cứng. Việc thuần dưỡng vật nuôi đạt nhiều tiến bộ, với nhiều giống loài phục vụ sức kéo, giữ nhà, đi săn và cung cấp thịt. Dấu tích hạt lúa, hạt gạo bị cháy và tượng trâu, bò tại tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ (Phùng Nguyên, Thành Dền, Đình Tràng, Đồng Đậu, Vườn Chuối) cho thấy sản xuất lúa, thóc, gạo đã phổ biến. Người xưa không chỉ gieo trồng theo mùa mà còn biết làm thủy lợi, đưa nước vào ruộng, đắp đê ngăn lũ, dự báo thiên tai và sử dụng trâu, bò để cày bừa, chọn lọc nhiều loại lúa thơm, ngon, chất lượng cao phù hợp thổ nhưỡng, như nếp cái hoa vàng, Tám thơm. Hình ảnh trên trống đồng Đông Sơn với những bông lúa, nhà sàn mái cong, người giã gạo, người đua thuyền… phần nào cho thấy kỹ thuật canh tác lúa nước và cuộc sống no ấm mà cây lúa nước mang lại.
Song song với nông nghiệp, nghề luyện kim và chế tạo đồ đồng cũng phát triển mạnh. Các mỏ quặng đồng phân tán trong châu thổ, khai thác dễ dàng, cùng buôn bán đường dài, tạo điều kiện phát triển thủ công nghiệp chuyên nghiệp. Trong văn hóa Đông Sơn, kỹ thuật đúc đồng đạt bước tiến vượt bậc về cả kỹ thuật lẫn mỹ thuật, từ sản phẩm thuần thực dụng như rìu, giáo, dao, mũi tên, lưỡi cày, đến sản phẩm nghệ thuật như tượng người, đồ trang sức, nhạc cụ, thạp đồng, với đỉnh cao là trống đồng Đông Sơn. Trống được làm bằng kỹ thuật khuôn đúc có nhiều mang ghép, kết hợp hệ thống con kê để đạt độ mỏng đều, hợp kim đồng - thiếc - chì được lựa chọn cẩn thận để tránh nứt vỡ, co ngót, hoa văn sắc nét. Họa tiết trang trí mang tính bản địa, kế thừa truyền thống trước như hình mặt trời, đàn chim Lạc, nhà sàn mái cong, người giã gạo, người đua thuyền, bố trí đối xứng và lặp lại theo vòng tròn, biểu thị chu kỳ gieo trồng lúa trong năm. Các mảnh khuôn đúc trống đồng khai quật ở Luy Lâu, Bắc Ninh cho thấy tính bản địa, sức sống bền vững của thành tựu văn hóa này.
Cùng với nông nghiệp và thủ công nghiệp, tổ chức xã hội cũng phát triển. Sự gia tăng dân số và nhu cầu liên kết cộng đồng để đắp đê, chống ngoại xâm, giải quyết tranh chấp, bảo vệ mùa màng đã hình thành liên minh mới giữa các bộ lạc trong vùng châu thổ Bắc bộ với người đứng đầu gọi là vua Hùng, dưới quyền là các Lạc hầu, Lạc tướng quản lý từng bộ lạc. Nhà nước Văn Lang được hình thành, đánh dấu nền chính quyền tập trung đầu tiên, truyền qua nhiều đời vua Hùng, tiếp nối bằng nhà nước Âu Lạc của vua An Dương Vương, với kinh đô đóng tại Cổ Loa (Hà Nội) ngày nay. Các di tích khai quật cho thấy dấu vết bức tường thành được đào đắp công phu. Nhiều kho chứa mũi tên đồng, trống đồng, lưỡi cày đồng, đặc biệt trong khu vực đền Thượng (gần nơi cung cấm trước kia) có xưởng đúc mũi tên đồng. Những dấu vết này cho thấy đây có thể là một trong những kinh thành sớm nhất Đông Nam Á, chứng minh trình độ tổ chức và quản trị xã hội của cha ông ta trong nền văn minh sông Hồng.

Văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tôn giáo cũng phát triển phong phú. Tín ngưỡng dân gian bản địa hình thành và phát triển với vạn vật hữu linh, thờ các vị thần tự nhiên (thần núi, thần sông, thần rừng), ông bà tổ tiên, Mẫu, Đức Thánh Tản Viên, Đức Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, vua Hùng, Thành hoàng làng… Văn hóa dân gian đa dạng với lễ hội xuống đồng, rước nước, lễ mừng cơm mới, hát cầu mùa, hát giao duyên, hát hầu thánh… trong đó nhiều loại hình được UNESCO công nhận là di sản văn hóa nhân loại. Trong quá trình phát triển, nhờ là nơi giao lưu kinh tế - văn hoá khu vực và quốc tế, mà văn minh sông Hồng đã có giao lưu và hội nhập với nhiều loại hình tôn giáo tín ngưỡng khác nhau… để có thêm những loại hình văn hoá nghệ thuật, tín ngưỡng tôn giáo mới, song vẫn mang nét bản địa của nền văn minh gốc. Có thể thấy qua những khác biệt với nơi xuất phát của các tôn giáo này, như: Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Kitô giáo… Sự lan tỏa quốc tế của văn minh sông Hồng được chứng minh qua việc trống Đông Sơn xuất hiện ở Indonesia, Lào, Campuchia, Thái Lan, Nam Trung Quốc. Đến nay, nhiều giá trị của văn minh sông Hồng vẫn hiện hữu trong đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, từ nông nghiệp, kiến trúc, làng nghề truyền thống, âm nhạc, tín ngưỡng, đến ứng xử với thiên nhiên, thể hiện sức sống bền bỉ vượt thời gian. Một số cộng đồng quốc tế còn học hỏi kỹ thuật lúa nước từ nền văn minh này, cho thấy tầm ảnh hưởng sâu rộng và giá trị trường tồn của nền văn minh sông Hồng./.