Càng sống đời càng đầy đặn yêu thương
“Trước hoàng hôn” (Nxb Hội Nhà văn, 2025) là tập thơ thứ 19 của Quang Hoài. Tập thơ ra đời vào thời điểm đặc biệt: nhà thơ - đại tá của chúng ta vừa bước sang tuổi 80 và đang chiến đấu với trọng bệnh. Nhưng như chưa hề biết đến tuổi già và như để quên đi sự thách đố nghiệt ngã của số phận, nhà thơ Quang Hoài vẫn bình thản yêu và sống, bình thản yêu và làm thơ một cách bản lĩnh, đầy nhân bản.
Ngay từ đầu tập thơ, trong “Với loa kèn tháng tư”, “Dưới trăng nửa đêm buốt lạnh”, Quang Hoài vẫn ước một tình yêu:
Bao giờ được ngắm loa kèn
Cạn dăm ba chén say mèm cùng em
Cho hoa thủ thỉ cất lên
Lời yêu em chỉ dành riêng một người
Tình yêu ấy hẳn phải dành cho người tri kỷ trăm năm? Đến “Mùa em”, trong “Những đêm đông lạnh buốt canh thâu”, Quang Hoài hình dung ra 3 vùng khác nhau bên cạnh tình yêu của mình. Đó là “vùng xuân nồng ấm” qua “hơi thở em”, “vùng hè dịu nóng” qua “bàn tay em” và “vùng thu lên hương” qua “làn môi em”. Bên em, có lúc ông phải thốt lên:
Có mùa nào hơn mùa em, em ơi
Anh hạnh ngộ mùa em đích thực!
Đó là “Có một miền chỉ một”, “Miền Hoài Phương” (chữ ghép giữa tên của nhà thơ và người bạn đời) góp phần nâng vực thế giới tinh thần của chính nhà thơ:
Ta nhủ lòng ta mỗi ngày
Càng sống đời càng đầy đặn yêu thương!
Đấy là phần “bình thản yêu và sống”. Còn phần “bình thản yêu và làm thơ” trong “Trước hoàng hôn” cũng mạnh mẽ không kém. Ông nhiều lần trở đi trở lại với đề tài này qua các bài: “Trắng bao đêm”, “Thi sĩ 1”, “Thi sĩ 2”, “Mắt thơ”, “Nỗi đau con chữ”, “Một tiếng thơ”, “Chết trong con chữ”...
Có lúc, ông ngẫm với con mắt thấu cảm của một người trong cuộc và am hiểu nghề:
Bóng người ẩn sau cơn chữ...
Con chữ lên đồng bóng chết trong câu.
Có lúc, ông coi thơ là cõi thiêng, là điều viễn tưởng:
Đất - Trời một tầm tay với
Thơ ta quẫy sóng trên đầu...
Là một thi nhân nhiều trải nghiệm, ông nhận ra cái tất yếu của cõi người và bình thản chấp nhận: cái chết cũng chỉ là “Hoàn nguyên cát bụi/ ta về Hư Vô” (Trước hoàng hôn), “Đổ nước ra biển lớn/ Tan hòa trong mênh mông” (Tan hòa trong mênh mông). Vì thế, ông cứ ngạo nghễ mà sống, mà say mê sống:
Men đời
nhấp một li cay
Núi cao mặc núi
ta bay ngang trời!
(Nhấp một li cay)
và tự nhận mình là:
Ta là người nẻo chơi vơi
Hay là người xứ muôn đời lẻ loi?
(Mang mang mây trắng trên đầu)
Thơ trong “Trước hoàng hôn”, theo tôi, ít nhất có hai tứ lạ một cách khác thường.
Đầu tiên là “Gông cùm”:
Bầu trời
gông cùm
trái đất
Trái đất
gông cùm
con người
Con người
gông cùm
con vật
Con vật
gông cùm
ta.
Bài này mang dáng dấp của một bài thơ định đề: cấu trúc chặt chẽ, các tầng ý nghĩa nối tiếp nhau như một chuỗi luận đề, vừa gợi hình, vừa gợi triết lý. Đặc biệt câu: “Con vật/ gông cùm/ ta” là một kết thúc bất ngờ, đảo chiều. Chính con vật - biểu tượng của bản năng, của thiên nhiên hoang dã lại là thứ “gông cùm” ràng buộc ta. Có thể hiểu: bản năng chi phối ta, sự tàn nhẫn của ta với chúng quay lại ám ảnh ta. Hoặc sâu xa hơn: cái ta bị giam cầm trong vòng luân hồi khổ đau, nơi mọi quan hệ đều thành trói buộc.
Bài thơ phác hoạ một vòng luẩn quẩn: từ vũ trụ đến tự nhiên, con người, con vật rồi trở lại ta. Vòng trói buộc không ai thoát, tất cả đều mắc kẹt trong một mạng lưới gông cùm. Nhìn ở góc độ hiện sinh: con người không thể thoát khỏi giới hạn, mọi tồn tại đều là giam hãm. Nhìn dưới góc độ Phật học: đây là vòng nhân quả, trói buộc lẫn nhau, không ai thực sự tự do cho đến khi thoát khỏi luân hồi chấp ngã.
Theo tôi, sức mạnh của “Gông cùm” là ở chỗ nó buộc người đọc phải tự hỏi: Ai đang giam cầm ai? Và liệu có thoát ra nổi khỏi vòng gông ấy không?
Như vậy, không chỉ con vật gông cùm ta, mà chính cái “ta” hoặc phần “con” trong “con người” cũng giam cầm ta. Bài thơ có thể được đọc như một công án thiền: “Gông cùm” không nằm ở ngoài, mà ở ngay trong tâm. Nhận ra điều đó, ta mới bắt đầu thấy manh mối của tự do. Như vậy, cái “ta” trong câu kết vừa là đích đến, vừa là chìa khóa giải mã: Mọi gông cùm đều quy tụ về chỗ này, và cũng chỉ tại chỗ này con đường giải thoát mới có thể mở ra.
Tiếp sau là “Giọng điệu” (phần “Giọng điệu một”). Thoạt đọc thấy tứ thơ có vẻ được triển khai theo kiểu “Thượng đế làm ra mặt trời” của nhà thơ Đức Christa Reinig. Nhưng đọc kỹ thì không phải. Đoạn cuối của “Giọng điệu một” như lật ngược lại tất cả - một tứ thơ dạng đòn bẩy - khi một người khiếm thị lên tiếng trả lời câu hỏi: “Người đang bận gì?”. Câu trả lời ấy như sau: “Người đang bận chiếm lĩnh: Chiếm lĩnh đàn ông, chiếm lĩnh đàn bà, chiếm lĩnh miếng ăn, chiếm lĩnh chỗ ngồi và... chiếm lĩnh lẫn nhau!”
Khác lạ và sáng tạo của bài thơ nằm ở khổ cuối; giá trị của bài thơ cũng nằm ở khổ cuối. Nếu được phép, tôi sẽ đổi “chiếm lĩnh” thành “chiếm đoạt”, cho nặng hơn và sát nghĩa hơn, bởi “chiếm lĩnh” xem ra vẫn còn hơi nhẹ.
Nhờ tiếp thu tinh thần từ “Giản dị là cảnh giới tận cùng của văn chương” của Lưu Đại Khôi và “Thơ hay nhất là thơ bình dị” của Lục Du mà Quang Hoài như ngộ ra trong “Suy nghĩ lan man”:
Ôi, đất trời mênh mông
sao sinh ra con người
lại cho yêu, cho ghét
lại cho khóc, cho cười?
Nói cho cùng, sự giản dị chính là sự khám phá bí ẩn giấu dưới bề mặt của các hiện tượng đời thường. Khi điều này đã được tìm thấy thì mọi thứ khác không còn cần thiết nữa./.