BƯỚC TIẾN MỚI TRONG TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA:Bài 3: Kinh tế di sản - tầm nhìn mới của Đảng trong phát triển văn hóa
Trong Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV, khái niệm “kinh tế di sản” lần đầu tiên được đề cập như một định hướng chiến lược cho phát triển văn hóa bền vững. Đây có thể coi là bước chuyển quan trọng về tư duy, mở ra cách tiếp cận mới về di sản văn hóa trong bối cảnh phát triển hiện nay.
Động lực để bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc
Trong tiến trình phát triển của đất nước, Đảng ta luôn xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển. Tuy nhiên, trước những vận động sâu rộng của toàn cầu hóa và yêu cầu phát triển bền vững, tư duy này đang được mở rộng, bổ sung bằng những định hướng mới, đặc biệt là cách nhìn về di sản văn hóa trong mối quan hệ với phát triển kinh tế. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã thể hiện rõ điều đó khi nhấn mạnh: “Bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế di sản”.

Kinh tế di sản (Heritage Economy) là mô hình kinh tế dựa trên khai thác và phát huy các giá trị của di sản văn hóa, di sản thiên nhiên để tạo ra nguồn lực phát triển kinh tế, đồng thời gắn liền với công tác bảo tồn di sản. Khái niệm này tuy mới ở Việt Nam nhưng đã được nhiều quốc gia phát triển lựa chọn như một hướng đi chiến lược nhằm duy trì bản sắc đồng thời thúc đẩy sáng tạo và sinh kế cộng đồng.
TS. Trần Hữu Sơn - Viện trưởng Viện Văn hóa dân gian ứng dụng cho rằng, kinh tế di sản chính là bệ đỡ cho công tác bảo tồn và phát huy di sản, vừa hỗ trợ nguồn lực cho cộng đồng, doanh nghiệp vừa đóng góp cho quỹ bảo tồn di sản phát huy nhiều giá trị.
Theo ông, kinh tế di sản bao gồm nhiều loại hình như: du lịch di sản, sản phẩm OCOP, ngành công nghiệp văn hóa phát triển trên nền giá trị biểu tượng của di sản, ẩm thực truyền thống, nghề thủ công mỹ nghệ… Các loại hình này đều có đặc điểm chung là bắt nguồn từ di sản, là loại hình kinh tế dựa vào giá trị của các di sản văn hóa.
Tại Việt Nam, theo thống kê của Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch), tính đến tháng 6/2025 cả nước có 40.000 di tích và khoảng gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê trong đó có 36 di sản được UNESCO ghi danh… Khối tài sản vô cùng quý báu của cộng đồng các dân tộc Việt Nam này cũng là tiềm năng lớn cho kinh tế di sản, tạo nguồn lực quan trọng cho phát triển văn hóa.

Với việc xác định “Bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế di sản”, Đảng ta đã thể hiện bước tiến trong tư duy lý luận, từ chỗ nhấn mạnh văn hóa là nền tảng sang văn hóa là hệ điều tiết phát triển, trong đó di sản giữ một vị trí then chốt.
TS. Nguyễn Văn Đoàn - Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia phân tích: “Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã mở rộng phạm vi tiếp cận di sản trong mối quan hệ với du lịch văn hóa, công nghiệp văn hóa và chuyển đổi số di sản, khẳng định tầm quan trọng của việc gắn với bảo tồn với phát triển bền vững. Điều này cho thấy nhận thức của Đảng về văn hóa đã chuyển mạnh từ “bảo tồn thụ động” sang “phát triển chủ động”, hướng tới một nền kinh tế văn hóa sáng tạo, trong đó di sản trở thành động lực đổi mới và hội nhập quốc tế.
Nhận thức mới - yêu cầu của thực tiễn
Thực tiễn bảo tồn và phát huy di sản hiện nay đã và đang đặt ra những đòi hỏi phải cụ thể hóa tư duy ấy bằng hành động. PGS.TS Nguyễn Văn Dương - Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam cho rằng công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa ở nước ta chưa thực sự đồng bộ, chưa tạo được sự gắn kết liên ngành, mạnh địa phương nào, địa phương ấy làm. Trong bối cảnh kinh tế số, công nghiệp văn hóa và du lịch trải nghiệm ngày càng phát triển mạnh mẽ, mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển đã trở thành vấn đề sống còn của văn hóa.
Dự thảo Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng khóa XIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng cũng nêu rõ yêu cầu nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của một số ngành công nghiệp nền tảng trong đó có công nghiệp văn hóa, kinh tế di sản. Điều này cho thấy, phát triển kinh tế di sản được đặt trong tầm nhìn chiến lược: khai thác giá trị để phục vụ hiện tại nhưng đồng thời gìn giữ, bồi đắp sức mạnh lâu dài cho phát triển bền vững.
Theo PGS.TS Đặng Văn Bài - Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia, thời kỳ mới với đặc trưng là hội nhập quốc tế sâu rộng và sự bùng nổ của công nghệ đặt ra yêu cầu phải thay đổi căn bản cách tiếp cận đối với di sản văn hóa. “Bảo tồn truyền thống không còn là việc giữ nguyên trạng, tĩnh tại, đông cứng mà phải là quá trình đổi mới để sáng tạo di sản trở nên sống động, hấp dẫn và phải tạo ra được giá trị mới. Việc áp dụng tư duy sáng tạo trong bảo tồn di sản văn hóa chính là chìa khóa để biến di sản thành nguồn lực nội sinh mạnh mẽ, thúc đấy phát triển văn hóa xây dựng con người Việt Nam toàn diện”, ông khẳng định.
Từ thực tiễn có thể thấy: gắn di sản với kinh tế bền vững không phải là lựa chọn, mà là yêu cầu của thời đại. Tư duy mới của Đảng vì vậy không chỉ đúng về lý luận mà còn trúng với nhu cầu thực tế của đất nước.
TS. Trần Đoàn Lâm cho rằng, để thúc đẩy hoạt động kinh tế trong di sản văn hóa một cách bền vững, đồng bộ đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ và liên ngành, trong đó tập trung vào hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh công nghệ và phát triển nguồn nhân lực. Khi ba yếu tố thể chế - công nghệ - nhân lực được kết nối, tư duy mới của Đảng sẽ có điểm tựa để đi vào cuộc sống, góp phần đưa di sản từ giá trị tinh thần trở thành động lực phát triển quốc gia.
TS. Trần Đoàn Lâm cũng khẳng định “Kinh tế di sản là một định hướng chiến lược mang tính đột phá của Việt Nam, chuyển đổi di sản từ một tài sản mang tính bảo tồn tĩnh sang một nguồn lực phát triển kinh tế năng động và bền vững. Tuy nhiên, hiệu quả của kinh tế di sản phụ thuộc vào khả năng quản trị và thể chế hóa của chính chúng ta. Vì vậy, để đảm bảo kinh tế di sản thực sự là con đường hiện thực hóa mục tiêu kết hợp hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, cần tập trung xây dựng chiến lược dài hạn trong chiến lược tổng thế phát triển quốc gia cũng như kế hoạch ngắn hạn hướng vào phát triển ngành kinh tế này.
Có thể nói, định hướng gắn di sản với kinh tế bền vững mà Văn kiện Đại hội XIV đã đề cập tới cho thấy sự đổi mới sâu sắc trong tư duy lý luận của Đảng về phát triển văn hóa. Đây là sự thay đổi về nhận thức mang tính đột phá, phù hợp yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới.
Với định hướng này, di sản sẽ không chỉ được bảo tồn mà còn được “tái sinh” trong đời sống đương đại, hướng tới một nền văn hóa vừa đậm đà bản sắc, vừa tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển quốc gia. Nếu được quản lý và vận hành hợp lý, kinh tế di sản sẽ mang lại nhiều lợi ích quan trong cho sự phát triển của quốc gia, đặc biết là đóng góp nguồn lực cho bảo tồn, phát huy vai trò cộng đồng, thúc đẩy hội nhập và vị thế quốc gia./.