Văn hóa – Di sản

Chảy mãi mạch nguồn gìn giữ, phát triển di sản văn hóa Việt Nam

Trung Kiên 14:21 18/11/2025

Suốt quá trình xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng, quan tâm và xác định di sản văn hóa là bản sắc của văn hóa dân tộc, là cơ sở để xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, là một nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước.

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt viên gạch đầu tiên cho tư duy bảo vệ văn hóa nói chung, di sản văn hóa nói riêng bằng luật pháp. Bởi ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam), ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký, ban hành Sắc lệnh số 65/SL “Ấn định nhiệm vụ của Đông Phương Bác cổ Học viện” gồm 6 điều, thể hiện tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước Việt Nam mới với chính thể dân chủ cộng hòa đối với việc bảo tồn “cổ tích” mà ngày nay, “cổ tích” trong Sắc lệnh số 65/SL gọi là di sản văn hóa (di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể).

sac-lenh.jpg
Sắc lệnh số 65/SL “Ấn định nhiệm vụ của Đông Phương Bác cổ Học viện” do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, ban hành ngày 23/11/1945. (Ảnh tư liệu).

Từ việc Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 65/SL, đã khẳng định việc bảo tồn “cổ tích” là công việc rất quan trọng và cần thiết cho công cuộc kiến thiết nước Việt Nam; nêu cao trách nhiệm của Chính phủ, xã hội và mỗi người dân trong công tác này. Sắc lệnh số 65/SL chính là văn bản đầu tiên về bảo vệ di sản văn hóa dân tộc sau khi nước nhà giành được độc lập (2/9/1945), khẳng định vai trò quan trọng của di sản văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, về tính kế thừa trong phát triển văn hóa, về trách nhiệm của Nhà nước, xã hội và mỗi công dân trong việc bảo vệ di sản văn hóa.

Xuất phát từ ý nghĩa đó và trước yêu cầu trong thời kỳ mới, năm 2005, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định về việc lấy ngày 23/11 hằng năm là “Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam”, để từ đây phát huy truyền thống và ý thức trách nhiệm của những người làm công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam, động viên các tầng lớp xã hội tham gia tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.

2. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về bảo tồn di sản văn hóa, từng bước đồng bộ hơn, toàn diện hơn, cụ thể hơn, như: Luật Di sản Văn hóa (2001); Luật Di sản văn hóa năm 2009; Luật Di sản văn hóa năm 2024; các Nghị định của Chính phủ, Quyết định và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, các thông tư, Quyết định, Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ…

Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW, đã đưa ra quan điểm lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa, về bản sắc, đặc trưng văn hóa, về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc… trong đó quan tâm đến di sản văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nghị quyết số 03-NQ/TW khóa XVIII nêu rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”.

thu-tuong-tham23.jpg
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Thủ tướng New Zealand Christopher Luxon cùng thăm Văn Miếu-Quốc Tử Giám và nghe giới thiệu về các bia tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Ảnh: VGP/Nhật Bắc).

Tới Đại hội lần thứ X (2006), Đảng ta nêu rõ chủ trương và khẳng định tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hóa nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hóa, văn nghệ dân gian, kết hợp hài hòa việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch.

Bên cạnh đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (2014) đã cụ thể hóa nhiệm vụ bảo tồn, phát huy di sản văn hóa trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đó là: “Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam”.

Đây là hệ thống các quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo tồn, phát huy giá trị di sản gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống quan điểm này được thể hiện đầy đủ và rõ ràng, liên tục và yêu cầu giải quyết mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế ngày càng được thể hiện rõ, đặc biệt đặt trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hội nghị Trung ương 8 khóa XII (2018), Trung ương ban hành Kết luận số 37–KL/TW, trong đó công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử – văn hóa tiếp tục được quan tâm, thể hiện sự nhất quán trong chủ trương phát triển bền vững gắn với gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Đảng chú trọng: “Nâng cao hiệu quả các thiết chế văn hóa; bảo tồn, phát huy các giá trị di sản, văn hóa tốt đẹp”.

Tới Hội nghị Trung ương 10 khóa XII (2019), Đảng ta chính thức nâng tầm vai trò của di tích lên thành nguồn lực văn hóa – phát triển, khẳng định tầm nhìn chiến lược trong việc gắn di tích với xây dựng bản sắc dân tộc, giáo dục công dân, phát triển du lịch và bảo vệ chủ quyền văn hóa trong bối cảnh hội nhập. Từ những định hướng bảo tồn mang tính gìn giữ truyền thống, tư duy của Đảng đã phát triển theo hướng tích hợp, chiến lược và phát triển bền vững, biến di tích lịch sử – văn hóa thành một phần không thể thiếu trong kiến trúc tổng thể của phát triển quốc gia.

Tại Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV, Đảng ta cũng đã đề cập đến vấn đề “Bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế di sản”. Đây vừa là điểm mới về tư duy, vừa thể hiện bước ngoặt quan trọng, một hướng tiếp cận mang tính đột phá của Đảng ta trong kỷ nguyên mới khi xác định di sản văn hóa là nguồn lực phát triển, góp phần vào tăng trưởng bền vững của quốc gia.

dsc03213-min.jpg
Tiết mục nghệ thuật tại Festival Thăng Long - Hà Nội 2025 - một chuỗi sự kiện nghệ thuật, văn hóa là cầu nối di sản với sáng tạo đương đại.

3. Có thể khẳng định, trong suốt quá trình lịch sử của đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng, quan tâm đến công tác gìn giữ, bảo tồn và phát triển di sản văn hóa. Những định hướng, tầm nhìn chiến lược, đổi mới của Đảng, Nhà nước là kim chỉ nam quan trọng trong công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới; đồng thời khẳng định vai trò của di sản văn hóa trong sự nghiệp phát triển quốc gia, dân tộc.

Và, phát huy giá trị di sản văn hóa chính là khai thác sức mạnh nội sinh để phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, bền vững. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cũng là công việc thường xuyên của cộng đồng, của Nhà nước mà trong đó Đảng luôn giữ vai trò lãnh đạo để dân tộc Việt Nam vững bước trong kỷ nguyên mới./.

Trung Kiên