Tác giả - tác phẩm

Miền đất thơ của Lý Hữu Lương

Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến 23/05/2025 07:05

Trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại, thi ca là mảng sáng nổi bật nhất của văn học các dân tộc thiểu số, gắn với tên tuổi nhiều nhà thơ như: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Y Phương, Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn, Vương Anh, Inrasara… Một trong số các nhà thơ trẻ người dân tộc được dư luận văn học ghi nhận thời gian gần đây có Lý Hữu Lương, dân tộc Dao, sinh năm 1988 ở Yên Bái, hiện là biên tập viên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Anh là tác giả của tập thơ “Yao” được trao Giải thưởng Tác giả trẻ lần thứ Nhất của Hội Nhà văn Việt Nam.

Từ bài thơ “Người đàn bà cõng trăng đỉnh Cô-San”…

Trong lần đi dự một hội nghị viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam với tư cách một nhà thơ - nhà báo, tôi gặp Lý Hữu Lương lúc ấy đang là học viên Trường Sĩ quan Chính trị (Bắc Ninh), là lính vùng biên thuộc Quân khu 2, được cử đi dự. Tối hôm ấy, Lương đọc cho tôi nghe một số bài thơ và tôi nhận ra ngay dấu hiệu của một tài năng thơ trẻ người dân tộc. Tôi bảo Lương chép cho tôi bài thơ “Người đàn bà cõng trăng đỉnh Cô-San” mới viết và tôi gửi luôn bài thơ này cho báo Thanh Niên, vài ngày sau báo đăng. “Lưng cong/ cong lưỡi liềm/ Môi cong/ cong lưỡi liềm/ Người đàn bà quấn chân xà cạp/ cõng trăng lên đỉnh trời!/ Trăng đựng trong ống bương/ Trăng nằm nghiêng lưng váy áo/ Trăng vỡ òa mồ hôi/ giọt sóng sánh/ bồng bềnh/ bung biêng/ chao nghiêng tóc gió/ Loài thú động tình, mắt sáng lân tinh/ Liếm từng giọt trời rơi vãi!/ Mùa nhọc nhằn lùi sâu/ thăm thẳm.../ Người đàn bà xà cạp quấn chân/ ụp cả vầng trăng vào lu nước/ trăng lăn tăn/ cười… sau đôi mắt/ những người đàn bà/ họ đang duỗi dài chân trước cửa.../ gà rừng gáy sâu thăm thẳm/ Trăng hạn đói rang sấp ngửa nền trời!!!” (Người đàn bà cõng trăng đỉnh Cô-San)

nha-tho-ly-huu-luong..jpg
Nhà thơ Lý Hữu Lương.

Bài thơ trên, Lý Hữu Lương viết khi mới hơn hai mươi tuổi với hình tượng người đàn bà cõng trăng lên đỉnh trời - một tứ thơ khá độc đáo. Qua những hình ảnh trữ tình đầy biểu cảm, vẻ đẹp thuần khiết, thanh cao và đầy sức sống của người phụ nữ hiện lên như ánh trăng muôn thuở của hy vọng và khát vọng, vượt lên mọi nhọc nhằn, khắc nghiệt của đời sống miền núi: Trăng đựng trong ống bương; Trăng nằm nghiêng lưng váy áo; Trăng vỡ òa mồ hôi và được kết bằng câu thơ: Trăng hạn đói rang sấp ngửa nền trời.

Cũng trong hội nghị viết văn trẻ lần ấy, tôi nói với nhà thơ Nguyễn Bình Phương khi đó là Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội rằng nên chú ý tới Lý Hữu Lương - một tài năng bắt đầu xuất lộ. Thật đáng mừng, không lâu sau, nhà thơ Nguyễn Bình Phương đã trực tiếp xuống đơn vị để xin Lương về làm biên tập cho tạp chí.

Cho đến hôm nay, Lý Hữu Lương đã xuất bản được một số tác phẩm thơ như: “Người đàn bà cõng trăng đỉnh Cô-San” (2013), trường ca “Bình nguyên đỏ” (2016), tập bút ký “Mùa biển lặng” (2020) và tập thơ “Yao” (2021) - Yao chính là từ Dao trong phiên âm tiếng dân tộc. Ngay từ những bài thơ đầu tiên, tôi đã nhận ra Lý Hữu Lương có một giọng điệu riêng như thể anh muốn khắc họa, khắc tạc các chân dung thơ của những phận người, của đời sống này bằng những nỗi buồn, những nỗi đau, những xa xót thầm lặng. Bài thơ “Đinh lăng” viết về sự mất mát trong chiến tranh là một ví dụ: “Chị tôi làm đàn bà trên chiếc giường mọt đẽo/ vội vã cuồng điên.../ giọt nước mắt lấp liếm bờ mi hạnh phúc/ Chị không dậy quàng dây ba lô/ trên vai người chồng chinh chiến/ mù bụi xác sa trường.../ quấn tấm chăn hờ khép liếp cửa/ hàng đinh lăng rạp lối chân người/ Ba mươi năm/ trên giường chị còn mùi xanh/ ngai ngái đinh lăng/ cùng yên ngủ với những lời/ lầm rầm khấn vái/ Anh ở đâu nơi miền xa ngái/ hành đinh lăng/ rạp lối… anh chưa về? (Đinh lăng)
Không chỉ viết bằng cảm xúc và hình ảnh, nhà thơ trẻ người dân tộc thiểu số này còn có dụng ý rõ rệt trong việc dựng hình tượng thơ khá sống động, gắn liền với bản sắc văn hóa của chính dân tộc mình. Tôi cho rằng, mỗi thi sĩ đích thực và tài năng đều nên có một miền đất thơ của riêng mình để tỏa sáng. Tùy theo từng người, miền đất thơ ấy có thể là không gian văn hóa của dân tộc, là quê hương, bản quán; hoặc cũng có thể là một đời sống thi ca được kiến tạo từ chính giọng điệu, sắc thái và phong cách nghệ thuật riêng biệt mà họ tạo dựng nên.

… đến một giọng thơ mang bản sắc văn hóa Dao

Tuy không viết bằng tiếng Dao nhưng thơ với Lý Hữu Lương mang đậm bản sắc cội nguồn, nơi văn hóa của người Dao đã thấm vào huyết quản anh từ tấm bé. Bài thơ dưới đây phần nào phản ánh rõ điều đó: “Tôi gọi tộc người mình là Nỗi Buồn/ Nỗi Buồn thiên di/ Nỗi Buồn củi nhỏ/ Cháy ủ ê qua mười kiếp người/ Đỏ than dăm mười kiếp nữa/ Lũ chúng tôi dại khờ/ Lũ chúng tôi hiền từ/ Lấy cỏ cây làm linh vật/ Thờ tổ tiên để mà nhớ/ Cố thổ nằm nơi đâu/ Những Nỗi Buồn có màu da người/ Những nụ cười màu da người/ Trôi như mơ trên dòng lũ/ Trăm kiếp tha phương một tha hương/ Dao thắt lưng hồn muôn trùng/ Đi. Đi thôi. Ngựa hí rồi/ Mỗi khi hơ tay lên bếp lửa/ Thấy trước mặt là cố hương/ Mỗi bóng người động đậy/ Thấy trước mặt mù sương/ Sống trăm ngày không quần áo đẹp/ Chết một lần là đẹp nhất/ Dẫu chết ở trăm núi ngàn sông/ Hồn vượt biển về Dương Châu đại điện.../ Dưới vòm trời thiên kỉ/ Lũ chúng tôi như trẻ con dậy muộn/ Gọi nhau bằng tiếng gà lục cục/ Lầm lũi đi/ Lầm lũi đi… (Bài ca thiên di)

tap-tho-yao-cua-nha-tho-ly-huu-luong.jpg
Tập thơ “Yao” của Lý Hữu Lương đã được trao Giải thưởng Tác giả trẻ lần thứ Nhất của Hội Nhà văn Việt Nam.

Trong một cuộc phỏng vấn về cội nguồn văn hóa của dân tộc mình, Lý Hữu Lương từng bày tỏ nỗi trăn trở: “Trong tâm khảm con người, tôi luôn giữ lại cho mình những giá trị hiện tồn cơ bản và thiêng liêng nhất của dân tộc. Đêm đêm, tôi vẫn mơ trở về làng, ôm lấy mẹ tôi và nghe mẹ hát một điệu páo dung, mơ cùng người làng những giấc mơ no đủ từ hạt giống của trời, mơ cho lúa đầy kho, ngô đầy gác bếp, mơ những sáng dậy cùng em gái nhà bên đi thăm máng nước, hái những bông hoa đỏ ngoài hiên để bày lên bàn thờ tổ tiên… Đó là không gian của tôi, là căn cước của tôi, một cậu bé người Dao. Căn cước hay một định nghĩa về một dân tộc, một sắc tộc, trước những chân giá trị của tổ tiên, nguồn gốc, trước biến đổi to lớn về mọi mặt đời sống, văn hóa, tư tưởng để chúng tôi không bị chấp chới, mờ nhạt trước thời đại”.

Thơ với Lý Hữu Lương chính là đời sống hàng ngày hiện lên trong trường ngôn thi của những khẩu ngữ đầy day dứt, ám ảnh. Như trong một đoạn ngắn dưới đây: “Người già bảo/ Ba năm gió mặn/ Ba năm không mưa/ Tay đàn ông không cầm nổi tay đàn bà/ Không có tiếng đứa trẻ con nào vỡ/… Người già nói/ Chiều nặng mùi rượu sắn/ Đêm gầy quá/ Không thở nổi/ Đêm gầy quá/ Ta không ngủ được/… Người trẻ nói/ Hãy cho tôi đi/ Trên cả đôi cánh diều hâu chiều nay xộ gà con/ Tôi sẽ chết nếu không vượt đỉnh Bàn Mai/ Có tiếng tặc lưỡi ngoài kia/ Cũng không rõ của người hay tắc kè nữa...”. Chỉ với mấy khẩu ngữ, Lý Hữu Lương đã chạm tới cái phần căn cốt của đời sống này.

Chính “căn cước thơ” đó đã làm nên một miền đất thơ riêng của anh, luôn hướng về cội nguồn, về bản ngã và về lịch sử của dân tộc mình. Trong tập thơ “Yao”, anh có nhiều bài thơ viết về dân tộc Dao: “Người Dao”; “Người rừng”; “Tiếng nói của dân tộc tôi”; “Viết cho dân tộc tôi”… với một giọng thơ giàu chất tự sự và chất phác, giản dị như cách đồng cảm, cách nói, cách chia sẻ, cách sống của người Dao vậy! Và đêm đêm, trong giấc mơ, Lý Hữu Lương luôn trở đi, trở lại với nhiều câu hỏi về tổ tiên, cội nguồn của dân tộc mình: “Mỗi đêm tôi đều gặp tổ tiên của mình/ Người nói/ Đất như là sinh mệnh/ Đất như là sinh mệnh/ Mỗi đêm tôi đều gặp tổ tiên của mình/ Người không rõ mặt/ Giống ai đó tôi đã thấy/ Nhưng có lẽ tôi cũng chưa từng gặp/ Người nói/ Đất như là sinh mệnh/ Của cỏ/ Của cây/ Của những bàn chân/ Mỗi đêm tôi đều nghĩ về thân phận tộc người/ Về những ngọn núi dưới trời Lĩnh Nam/ Bao nhiêu sừng trời/ Bao nhiêu sông suối/ Bao nhiêu sinh mạng/ Bài ca về cuộc thiên di mười hai họ người Dao/ Ướt bao nhiêu manh chiếu/ Trên những nấm đất dưới cỏ/ Người ngủ cả rồi/ Và chúng ta vẽ lên mặt tổ tiên/ Những truyền thuyết/ Về đất/ Về máu/ Về sự tôn thờ đồn đoán/ Những lần gặp tổ tiên/ Tôi đều muốn hỏi/ Người ở đâu trong truyền thuyết/ Người từ đâu đến/ Nguồn cội là gì/ Đất như là sinh mệnh/ Người nói/ Rồi đi...” (Sinh mệnh).

Đọc kỹ các tập thơ của Lý Hữu Lương, tôi nhận thấy dường như cái đích phía trước còn chờ anh chính là trường mỹ cảm của thi ca chiêm nghiệm, nơi cảm xúc được dẫn dắt bởi chiều sâu tư tưởng trong mỗi ý thơ, mỗi tứ thơ, mỗi hình ảnh thơ… Đó cũng là điều mà nhà thơ dân tộc bậc thầy nổi tiếng Y Phương đã từng chạm đến trong những bài thơ mang phong điệu và dấu ấn của riêng ông./.

Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến