Hà Nội xưa - nay

Một dòng họ tài danh phát tích từ Lương Xá

Anh Chi 16:36 29/09/2025

Nhà bác học Phan Huy Chú đã viết: “Ở làng Lương Xá nhà dòng dõi làm tướng, đời đời làm quan… Họ Đặng, từ Nghĩa Quốc công Đặng Huấn là công thần thời Lê Trung Hưng, có con gái lấy An vương Trịnh Tùng, sinh Văn tổ Trịnh Tráng. Về sau con cái đời đời vẻ vang, được phong Quận công, lấy Công chúa và làm chức Trấn thủ hơn 200 năm giàu sang mãi mãi…”.

Làng Lương Xá nay thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Họ Đặng danh tiếng bậc nhất thiên hạ, từ xưa đã được ghi trong bộ sách Đặng gia thế phả ký do Liên Quận công Đặng Thế Khoa viết năm Giáp Ngọ 1654, đời Lê Thần Tông; rồi Ung Quận công Đặng Đình Tướng soạn tiếp năm Bính Dần 1686, đời Lê Hy Tông; và Hiến Trung hầu Đặng Đình Quỳnh soạn lại từ 1739 đến 1753 thì xong. Sau, Đô đốc Đồng Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông soạn lại thành bộ sách 6 quyển Đặng gia phả hệ toản chính thực lục. Các sách đó đều chép rằng, họ Đặng nguyên là họ Trần. Trần Văn Trừng, người xã Thái Bạt, huyện Bất Bạt (nay là thôn Thái Bạt, xã Tòng Bạt, huyện Ba Vì), sau đổi tên là Huy, đã đỗ Hoàng Giáp khoa Nhâm Tuất 1442, đời Lê Thái Tông. Sau, ông làm quan đến Thượng thư bộ Lại, tước Dương Khê Hầu. Từ Bất Bạt, Trần Văn Huy chuyển cư về xã Tiên Lữ, huyện Yên Sơn (nay là xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ), sinh được một con gái sau làm vợ vua, và ba con trai là Trần Cận, Trần Du, Trần Lâm.

Nhà thờ họ Đặng ở Lương Xá.

Lịch sử họ Trần này, có một biến cố rất lớn xảy ra năm 1511, khiến phải đổi sang họ Đặng. Xin nói rõ một chút, Trần Cận đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu 1469, đời Lê Thánh Tông, và làm quan đến Thượng thư bộ Lại. Trần Cận có cháu nội là Trần Tuân. Vào ngày 11 tháng 11 năm Tân Mùi 1511, “Trần Tuân nổi loạn ở vùng Sơn Tây… Quân của Tuân đã bức sát đến Từ Liêm” (Đại Việt sử ký toàn thư). Thực tế lịch sử cho biết, hồi ấy, triều chính nhiều biến loạn, Trần Tuân nổi loạn là để chống lại Lê Tương Dực, một ông vua chơi bời vô độ đến mức dân gian gọi là vua lợn. Sau, Trần Tuân bị tướng của triều đình là Trịnh Duy Sản đánh dẹp. Do vậy, họ Trần này phải đổi sang họ Đặng. Trần Du đã đỗ Giải nguyên và làm quan đến chức Tham nghị, cũng phải đổi sang họ Đặng. Ông có 5 con, trong đó có con trưởng là Đặng Công Toản về cư trú ở Thượng Yên Quyết (nay là phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy), khởi nên chi họ Đặng danh tiếng. Đặng Công Toản đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn 1520, làm quan đến Tả thị lang bộ Hình. Khi Đặng Công Toản làm Tham nghị xứ Kinh Bắc đã lập nhà tại Phù Đổng, cho con trai là Đặng Công Khuê ở đó, tạo nên họ Đặng ở xã Phù Đổng. Sau, có Đặng Công Chất (1621-1683), đỗ Trạng nguyên khoa Tân Sửu 1641, làm quan tới Thượng thư bộ Binh, Tham tụng (Tể tướng), và là tác gia nổi tiếng đương thời. Con trai út của Trần Văn Huy là Trần Lâm, năm 1511 đổi là Đặng Lâm, chuyển cư về làng Mạc Xá, sau đổi gọi là Lương Xá, tạo nên họ Đặng ở Lương Xá mà nhà bác học Phan Huy Chú đã viết, như chúng tôi nêu ở trên.

Ngày nay, tại làng Lương Xá, trước cửa chùa Thủy Lâm, còn lưu giữ tấm bia đá Tông đức thế tự bi, khắc ngày 16 tháng Sáu năm Đinh Tỵ 1797, văn bia do Phan Huy Ích soạn, Ngô Thì Nhậm chỉnh sửa. Hai danh sĩ lớn này đều là người cùng thời với Đặng Tiến Đông. Văn bia ghi tóm tắt về dòng họ Đặng và công trạng của Đặng Tiến Đông, người đời gọi là Quan Đô. Ông sinh ngày 2 tháng 5 năm 1738, sau trở thành Đô đốc tài năng, dũng mãnh của nhà Tây Sơn. Chiến công hiển hách nhất của Đặng Tiến Đông là tiêu diệt nhanh gọn đồn Đống Đa rạng sáng ngày mồng 5 tháng Giêng năm 1789 mãi mãi còn in đậm trong lịch sử dân tộc…

Hãy quay lại buổi đầu Đặng Lâm thiên cư về làng Lương Xá 1511, rồi đến năm Kỷ Mão 1519 thì sinh được Đặng Huấn. Khi trưởng thành, Đặng Huấn có đủ trí, dũng, đã đầu quân, làm Đô lực sĩ dưới trướng Khiêm Quận công Lê Bá Ly của nhà Mạc. Đặng Huấn thiên cư sang làng Giẽ Hạ, xã Thịnh Phúc, huyện Phú Xuyên. Năm 1551, ông theo Lê Bá Ly vào Thanh Hóa tôn phò nhà Lê Trung Hưng và được phong là Khổng Lý hầu. Con gái Đặng Huấn lấy Trịnh Tùng, rồi sinh được Trịnh Tráng sau là chúa Thanh Đô vương. Đặng Huấn sau được phong Nghĩa Quốc công, khi mất được mai táng tại gò Mã Bối, thôn Giẽ Hạ. Họ Đặng xây chùa lên trên để sau này không bị đào bới (chùa này đã bị phá hủy trong chiến tranh). Chúa Trịnh Tráng khi còn nhỏ được bà ngoại Lê Thị An chăm nom dưỡng dục, lại càng nhớ công ơn của ông ngoại Đặng Huấn, nên đã cho lập Phủ từ họ Đặng ở thôn Giẽ Hạ, xã Thịnh Phúc, huyện phú Xuyên. Hàng năm chúa Trịnh thân đến Phủ từ họ Đặng cùng các tông chỉ họ Đặng và văn võ bá quan làm lễ tế. Chúa Thanh Đô vương còn cho dựng bia trước Phủ từ, ghi rõ mọi nghi thức tôn nghiêm. Bia này vẫn còn được lưu giữ. Một con trai của Đặng Huấn là Đặng Tiến Vinh, có công lớn với nhà Lê Trung Hưng, được phong Quận công. Đặng Tiến Vinh có hai con trai là Đặng Thế Tài và Đặng Thế Khoa.

Phan Huy Chú đã đánh giá Đặng Thế Khoa: “Là con nhà huân phiệt mà học thức rộng rãi, giữ mình trong sạch, kiệm ước…”. Đặng Thế Khoa trải các chức quan võ và cả quan văn, sau được vua Lê phong tước Liêm Quận công. Con trai Đặng Thế Tài là Đặng Tiến Thự rất thông minh, tài giỏi, năm 15 tuổi đã được ban quốc tính là Trịnh Liễu, năm 30 tuổi đã giữ chức Thái phó, Trấn thủ Nghệ An, được phong tước Yên Quận công, khi mất được phong làm Phúc thần. Trong số 17 người con của Đặng Tiến Thự, có mấy người ra làm quan và trở nên nổi tiếng xứ Bắc Hà, đó là Đặng Tiến Luân, Đặng Đình Sở và Đặng Đình Tướng. Bộc Quận công Đặng Tiến Luân giữ chức Trấn thủ xứ Sơn Tây, rồi Hải Dương. Lại Quận công Đặng Đình Sở làm quan Trấn thủ Sơn Tây. Đặng Đình Tướng (1649-1735), đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất 1670 đời Lê Huyền Tông, từng đi sứ nhà Thanh, làm quan trải nhiều chức trọng như Tả thị lang bộ Lại, Đô đốc trấn Sơn Nam, Thái phó, Thái Quận công, được ban Quốc lão…Đã về trí sĩ, Đặng Đình Tướng lại được mời ra làm Đại Tư mã; đến năm 80 tuổi lại về trí sĩ, được phong Đại Tư đồ, Ứng Quận công. Ông cũng là một tác gia nổi tiếng đương thời, hiệu là Trúc Ông, để lại cho đời các tác phẩm: Thuận cổ quy huấn, Trúc Ông phụng sứ tập, Linh Giang dinh vệ lục. Đặng Đình Tướng có ba con trai và một cháu nội đều lấy vợ là các quận chúa nhà họ Trịnh. Trong số đó, Quận công Đặng Đình Giám giữ chức Đốc phủ các trấn Sơn Nam, Sơn Tây, rồi Kinh Bắc; và Hiền Trung hầu Đặng Đình Quỳnh làm quan Lưu thủ, lập nghiệp ở trấn Thanh Hóa…

Bia ghi lại công tích của danh nhân Đặng Đình Tướng tại nhà thờ ông ở xã Thụy Hương, Chương Mỹ, Hà Nội.

Như vậy là, tiền khởi ở Bất Bạt, Sơn Tây từ thế kỷ XV, rồi phát lên ở làng Lương Xá, Chương Mỹ. Sau một chặng bĩ cực, lại phát triển và tỏa rộng về Thượng Yên Quyết, Từ Liêm, về Phù Đổng, Gia Lâm, về Giẽ Hạ, Phú Xuyên, lên Sơn Tây, vào Nghệ An… họ Đặng là một dòng họ tài danh bậc nhất thiên hạ! Chi họ Đặng về Thượng Yên Quyết, Từ Liêm, rồi tỏa sang Phù Đổng, Gia Lâm, Kinh Bắc… ngoài những người trở thành danh thần, lương tướng còn có những danh tài về văn chương, tiêu biểu như Trạng nguyên Đặng Công Chất, như danh sĩ Đặng Trần Côn (thế kỷ XVIII) là tác giả Chinh phụ ngâm bất hủ qua bản dịch ra quốc âm của Đoàn Thị Điểm. Đặng Trần Côn đã chuyển cư đến làng Mọc Hạ Đình, huyện Thanh Trì. Chi họ Đặng lập nghiệp ở Giẽ Hạ, huyện Phú Xuyên có rất nhiều người trở thành Công, Hầu, danh tướng, tiêu biểu như Đặng Huấn, và đến cuối thế kỷ XVIII lại có tài năng lớn Đặng Tiến Đông. Khi triều Lê - Trịnh đã suy tàn, do thấy được lý tưởng thống nhất đất nước của người anh hùng áo vải Tây Sơn, Đặng Tiến Đông đã vào Nam theo Quang Trung. Và chiến công đánh đồn Đống Đa ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu 1789 của ông mãi mãi in đậm trong lịch sử cùng tên tuổi Nguyễn Huệ anh hùng. Tại Phủ từ họ Đặng ở thôn Giẽ Hạ hiện còn lưu giữ một số di vật lịch sử thời Đặng Tiến Đông và một đôi câu đối (phiên âm): “Cự Mạc, phù Lê công tại hoàng gia, danh tại sử/ Quy tiền dụ hậu, sinh vi tướng tử vi thần”. (Tạm dịch): “Chống Mạc, giúp nhà Lê, công lao được liệt vào hàng thân tộc của vua/ Sớm chọn đường tốt đẹp cho mai sau, sống làm tướng giỏi chết hóa thần linh”. Còn trường hợp Đặng Tiến Thự, quốc tính Trịnh Liễu, vào làm quan Trấn thủ Nghệ An từ thế kỷ XVII, có 17 người con và nhiều cháu chắt tạo nên chi họ Đặng rất sâu dày ở đây, và cũng đóng góp cho đất nước nhiều danh thần, lương tướng, danh sĩ. Hậu duệ của Đặng Tiến Thự hai trăm năm sau còn có nhiều người làm rạng danh đất nước. Đó là danh sĩ Đặng Huy Trứ (1826-1874), tài năng trong cả lĩnh vực quân sự, kinh tế và văn hóa. Đó là Đặng Hữu Phổ (?-1885) chiêu binh hưởng ứng theo cờ nghĩa Cần Vương. Đúng như Nguyên Cẩn (1866-1923) đã viết: Nhìn non nước ngổn ngang trăm mối/ Đi Đông Kinh, Nam tiến biết bao người…

Để khép lại bài viết này, chúng tôi muốn nói thêm với bạn đọc rằng, thời đại ngày nay, họ Đặng lại có những văn nhân nghệ sĩ tài danh, đó là nhạc sĩ - nhà thơ Đặng Đình Hưng, là nghệ sĩ piano nổi tiếng thế giới Đặng Thái Sơn, là nhà viết kịch Đặng Đình Lưu… Và, cũng xin lưu ý bạn đọc, trong các sử sách cổ, cận đại, trong văn bia, khi viết về những danh nhân họ Đặng này đều ghi họ là người làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ. Vậy là tính từ khi họ Trần ở Bất Bạt cải sang họ Đặng, Trần Lâm thiên cư về Lương Xá, rồi sinh ra Đặng Huấn. Nghiã Quốc công Đặng Huấn như một cội gốc lớn của họ Đặng, khi về trí sĩ ông vẫn hay về Lương Xá. Cứ vào các ngày mồng 1 và 15 hàng tháng, ông vào chầu vua, bên sườn đeo chiếc giỏ đan bằng tre. Trong giỏ đựng những đơn từ của người dân đang gặp những oan khuất gửi ông, để ông tâu trình với triều đình… Chuyện về họ Đặng phát tích từ Lương Xá, Chương Mỹ, Hà Nội và nổi danh bậc nhất thiên hạ suốt ba, bốn trăm năm trời thật sâu xa vô cùng, chúng tôi hiểu, một bài báo không thể nào nói đặng!

Anh Chi