“Công cuộc đổi mới, tư duy mới, thực tiễn mới”: Kiến giải sâu sắc nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
Trước khi trở thành chính khách, tác giả Phạm Quang Nghị từng là chiến sĩ trực tiếp chiến đấu nơi chiến trường Nam Bộ, đồng thời ông còn là nhà báo, nhà văn, nhà nghiên cứu có tâm có tầm dành cả cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những trải nghiệm thực tế sâu sắc cùng vốn sống phong phú đã hun đúc trong ông một tầm nhìn rộng mở và cả những trăn trở với thời cuộc.
Chính những thao thức ấy đã trở thành động lực giúp ông có những trang viết chân thật, chính luận sâu sắc, nhiệt thành đóng góp nhiều tác phẩm có giá trị trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đầu năm 2025, ông ra mắt tác phẩm “Công cuộc đổi mới, tư duy mới, thực tiễn mới” (gồm 2 tập) do NXB Chính trị Quốc gia Sự thật ấn hành. Bộ sách vừa bàn luận những vấn đề thời sự của đất nước, vừa kiến giải nhiều vấn đề tư tưởng triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin với “ước vọng của người yêu nước, thương dân”.
Giá trị thời đại của tư duy đổi mới và công cuộc đổi mới
Thực tiễn phát triển đất nước từ khi thành lập Đảng đến khi thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước cùng nhiều biến động thế giới thập niên 1980 - 1990, cho thấy giá trị cũng như ý nghĩa sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi mới đất nước. Trong đó, công cuộc đổi mới bắt đầu trước hết từ tư duy đổi mới. Nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị thể hiện tư duy lý luận sắc bén và những nhận định uyên bác về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Cụ thể, tư duy đổi mới bám sát thực tiễn, xuất phát bởi nhu cầu thực tiễn. “Hiện nay, yêu cầu đổi mới tư duy được nêu lên trước hết không phải từ phía các nhà triết học, các nhà hoạt động lý luận nói chung, mà từ chính tình hình kinh tế và chính trị cụ thể mà chúng ta đang sống, nghĩa là từ những đòi hỏi của thực tiễn” (tr.13). Theo Mác và Ăngghen: “Các nhà triết học chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. Nếu lý luận không có khả năng tác động và kiến tạo thực tiễn tốt đẹp hơn thì lý luận đó chỉ tư biện thuần túy. Từ thực tiễn, nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị cho rằng phải soi chiếu thêm lý luận. Nhờ đi vào thực tiễn, lý luận trở nên sống động đồng thời tăng cường thêm sức sống bền bỉ.

Hơn thế, lý luận hướng đến tác động đổi mới thực tiễn, kiến tạo đời sống mới. Do đó, lý luận càng phải bám sát thực tiễn để đánh giá hiệu quả vận dụng. Trong công cuộc đổi mới, mục tiêu gần gũi nhất là nhằm nâng cao hiệu quả và thúc đẩy nhanh công cuộc cách mạng. “Mục tiêu đổi mới tư duy là nhằm nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan đang chi phối hoạt động của chúng ta, đẩy nhanh hơn quá trình cách mạng mà chúng ta đang thực hiện” (tr.14). Điều này không có nghĩa phủ định và gác lại; hơn thế, đổi mới tư duy nên được hiểu là sự kiện toàn, nâng cao và phát huy những nhận thức đúng đắn. Đổi mới tư duy giúp chúng ta từng bước soi sáng cách nghĩ, cách làm; soi sáng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin. Tinh thần đổi mới tư duy của nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị cho thấy tầm nhìn bao quát toàn diện, chứ không phải vấn đề đột khởi hay ngẫu hứng nhất thời. Trên hết, nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị thể hiện niềm tin vững chắc vào con đường đổi mới đi lên xã hội chủ nghĩa: “Con đường đi tới sự đổi mới không dễ dàng. Nhưng một khi vấn đề đã trở thành đòi hỏi cấp bách mang tính khách quan của những nhu cầu thực tiễn thì sớm muộn, sự đổi mới sẽ được thực hiện” (tr.21). Vận dụng lý luận vào thực tiễn, và từ thực tiễn kiện toàn nâng cao lý luận - đó là hai chiều kích biện chứng như đôi chân đi tới trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Dẫu có những cam go, chông gai trên con đường ấy nhưng sự vững chí bền tâm đổi mới chắc chắn sẽ giúp đạt được thành tựu mục tiêu đề ra.
Những bước dịch chuyển thời đại, đổi mới hiện ra như liệu pháp chữa lành và nhờ đó kiện tráng “cơ thể xã hội” gắn bó mật thiết thêm mối liên hệ giữa ý Đảng và lòng dân; khiến cho “cơ thể xã hội” trở nên lành mạnh, khỏe khoắn hơn (tr.50). Nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị còn cho thấy một nhãn quan vừa chân thành vừa khẳng khái thẳng thắn trong cách đánh giá, nhất là với những vấn đề thiếu sót sai lầm trong vận dụng lý luận vào thực tiễn. Hơn hết, tinh thần thẳng thắn nhìn nhận những yếu kém sai lầm luôn dựa trên thực tiễn và khoa học. Nhà nghiên cứu đã làm rõ những nguồn sức mạnh cần khơi dậy trong công cuộc đổi mới ở nước ta, cụ thể: “mở rộng dân chủ, công khai là mục tiêu, phương hướng của đổi mới đồng thời cũng là phương tiện thực hiện đổi mới” (tr.51). Nhờ đó, công cuộc đổi mới nâng cao quyền làm chủ của nhân dân cũng như khơi dậy tiềm năng sáng tạo của toàn xã hội. Đồng thời, ông cũng lưu ý về sự cứng nhắc trong cái nhìn về “bảo thủ” và “đổi mới” (tr.52).
Chính từ đòi hỏi cấp bách của việc đổi mới tư duy, nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị đề cao nhân tố con người như động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nhất là, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần IV và đang tiến tới lần V thì nhận định này càng có giá trị hơn. Nhân tố con người với sự nhạy bén tiếp thu cái mới có thể kịp thời bắt nhịp với đà phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới. Cuộc chạy đua công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo đòi hỏi con người càng phải nhận thức sâu sắc hơn về tác động của công nghệ đối với các vấn đề xã hội và chính thể. “Nhân tố con người đã và vẫn là động lực quan trọng nhất của tiến bộ xã hội. Cách mạng khoa học-kỹ thuật có tạo ra được thành tựu thần kỳ, to lớn đến đâu, thì mọi sáng tạo ấy đều là sản phẩm của trí tuệ và lao động của con người” (tr.53). Do đó, nhận định của Phạm Quang Nghị trên báo Nhân Dân (ra ngày 13/1/1989) cho đến nay cần được nghiền ngẫm nhiều hơn nữa. Nhất là, sự nhấn mạnh trong quá trình đổi mới cần tạo ra động lực sao cho phát huy hết tiềm năng sáng tạo của con người. Nhận thức này cũng là định hướng đúng đắn của Đảng trong những ngày đầu thống nhất đất nước: đề cao nhân tố con người trong cuộc cách mạng của Đảng và toàn dân tộc trong giai đoạn mới. Và để thúc đẩy cách mạng khoa học - kỹ thuật, nhân tố con người đóng vai trò chủ đạo. Tư duy đổi mới trong kiến giải của nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị như sự tiếp nối vận động lịch sử cần thiết và tất yếu của quá trình xây dựng phát triển đất nước, cho thấy khả năng thích nghi, kiện toàn và sức sống chủ nghĩa Mác - Lênin.
Như đã nói, đổi mới trong nhận thức của nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và lý tưởng giải phóng nhân dân lao động, nên tư duy mới trong công cuộc đổi mới có giá trị cốt lõi và giá trị thời đại bởi mang lại cho nhân dân đời sống tốt đẹp hơn. “Lý tưởng giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, bất công xã hội; con người từ “vương quốc” của sự tất yếu chuyển sang “vương quốc” tự do; tự do của mỗi người sẽ là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người - đó là sự lựa chọn của trí tuệ và lương tâm nhân loại. Vừa qua, ở đâu đó thực hiện chưa tốt ý tưởng ấy, thì hôm nay, trong tương lai, người ta sẽ tìm ra những cách làm tốt hơn” (tr.91). Cùng với điều đó, thành tựu khoa học công nghệ khiến ông hoàn toàn tin tưởng khả năng vượt qua những vướng mắc nhất thời, khắc phục khủng hoảng và đạt thành mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, nhân dân hoàn toàn có thể tin tưởng ở kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Hàng loạt bước ngoặt trong đổi mới và phát triển đã minh chứng điều đó. Nhà nghiên cứu khẳng định: “Những thất bại tạm thời ở một số nước, dù đau đớn và to lớn đến đâu cũng không thể nào trở thành “lời bế mạc” cho một hệ tư tưởng, mà đó là báo hiệu sự đòi hỏi đổi mới, phát triển để tiến lên” (tr.92). Đây là sự khẳng định của nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị về sự chọn lựa con đường xã hội chủ nghĩa, đồng bộ với sự nghiệp đổi mới toàn diện trên cả nước: “Sự nghiệp đổi mới và những thành tựu quan trọng bước đầu đã đạt được ở nước ta trong những năm vừa qua đã và đang là những nhân tố hết sức quan trọng đối với việc khẳng định niềm tin vào con đường mà chúng ta đã lựa chọn. Đảng và nhân dân ta chứng minh tính đúng đắn trong sự lựa chọn của mình ngay trong quá trình thực hiện sự lựa chọn ấy. Đồng thời, từ những hoạt động thực tiễn phong phú của quá trình đổi mới, chúng ta sẽ tổng kết kinh nghiệm để bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội” (tr.93).
Điều này khẳng định sức sống và tính vượt thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như tư tưởng xã hội chủ nghĩa; khẳng định yêu cầu đổi mới cùng sự nghiệp đổi mới là đúng đắn và đạt nhiều thành quả vượt bậc. Từ góc nhìn lịch sử thời đại, góc nhìn người trong cuộc và góc nhìn khách quan bên ngoài, nhà nghiên cứu họ Phạm đã rút ra kinh nghiệm quan trong sự nghiệp đổi mới: “Mọi thắng lợi của học thuyết Mác, của tư tưởng xã hội chủ nghĩa đều thông qua sự đấu tranh và phát triển không ngừng, chứ không phải tự nhiên mà có. Tình hình hiện nay càng đòi hỏi chúng ta phải kiên quyết phê phán các luận điệu thù địch, mặt khác, cần suy xét một cách sâu sắc và khoa học về di sản lý luận của Mác, Lênin, đối chiếu lý luận đó với thực tiễn và tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và trên thế giới để tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội” (tr.172).
Qua nghiên cứu của Phạm Quang Nghị càng thấy rõ vai trò quan trọng của công cuộc đổi mới, tư duy đổi mới và thực tiễn mới bối cảnh biến động trong nước và trên thế giới thập niên 1980-1990. Từ những bàn luận sâu sát tình hình chuyển dịch nền kinh tế, nhà nghiên cứu càng cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa lý luận và thực tiễn. “Những đổi mới và phát triển về lý luận cùng với những thành công bước đầu trong thực tiễn đổi mới ở nước ta đã tiếp sức sống cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, một lần nữa vai trò quan trọng của lý luận lại khẳng định trên thực tế đổi mới ở nước ta” (tr.181). Trong bối cảnh mới, công cuộc đổi mới càng được kiên quyết tiếp tục để thích ứng với những biến động nhanh chóng của thế giới. Việc nắm bắt cơ hội, nắm vững lý luận, bám sát thực tiễn trong việc xúc tiến đổi mới càng cho thấy tầm quan trọng nhiều hơn nữa, đặc biệt trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam sau 40 năm đổi mới - kỷ nguyên phát triển thịnh vượng giàu mạnh hợp lòng dân, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, hiện đại, công bằng, dân chủ, văn minh.
Ý Đảng - lòng dân: Đảng ta vĩ đại, nhân dân ta anh hùng
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn cán bộ, đảng viên phải “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Học tập lời dạy Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị nhấn mạnh thêm: “Đảng vĩ đại không phải vì Đảng ở ngoài, hay ở trên mà là ở trong nhân dân” (tr.224). Đảng với dân là một.
Dù là công trình khoa học chân phương, giàu tính chính luận, tập sách “Công cuộc đổi mới, tư duy mới, thực tiễn mới” vẫn cho thấy tình cảm sâu nặng chất chứa bên trong. Người nay không quên người xưa, nhà nghiên cứu nhắc nhớ những chặng đường đấu tranh gian lao, những hy sinh mất mát, cam go thử thách; đi cùng thắng lợi là mồ hôi và xương máu của đồng bào, Đảng viên. Qua cách trình bày các bài viết, nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị luôn cho thấy nhãn quan lịch sử sâu rộng. Ông xác lập trục tọa độ cứu xét, trải ra trên cả chiều lịch đại lẫn đồng đại. Từ quan niệm yêu nước của các nhà nho Đông Du, ông nhấn mạnh sự tất yếu ra đời của Đảng như một bước phát triển vượt bậc của lịch sử dân tộc; đồng thời khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với lòng dân qua những cao trào đấu tranh cách mạng (1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945), kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Có thể nói, Phạm Quang Nghị là nhà nghiên cứu uyên bác về lý luận Mác xít, sâu sắc trong phương pháp nghiên cứu khoa học, hài hòa giữa tình và lý khi luận giải vấn đề. Ông không dùng lý để luận đơn thuần mà trong lý có tình, khi “thấu lý đạt tình” ông mới luận. Và ông luôn thẳng thắn bàn luận những vấn đề có tầm bao quát, trọng đại đối với vận mệnh lịch sử dân tộc và đất nước.

Nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị rút kết những nhận xét vô cùng sâu sắc và xương máu, không chỉ của thời đại Hồ Chí Minh mà còn là bài học lịch sử từ các triều đại trong quá khứ, để trở thành kinh nghiệm quý báu cho tương lai. Trên hết, đó là rút kết: ý Đảng tức lòng dân. “Chúng ta có thể nói công khai về bí quyết tạo nên sức mạnh vô địch của mình: Đó là vì nhân dân ta quyết tâm đi theo Đảng, làm theo Đảng, quyết chiến đấu để thực hiện tư tưởng: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Đó là vì “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”” (tr.227). Trải qua thời kỳ đổi mới với bao biến động trên thế giới, những thành tựu đạt được càng chứng tỏ ý Đảng và lòng dân đã thực sự kết thành một khối. Đó là động lực, là sức mạnh giúp dân tộc vượt qua những thử thách tưởng chừng chẳng thể vượt qua. Sự gắn bó mật thiết giữa ý Đảng, lòng dân càng có ý nghĩa hơn trong kỷ nguyên vươn mình phát triển nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Điều này góp phần thúc đẩy nhận thức về nhân tố con người trong kỷ nguyên mới. Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức, mỗi thành phần xã hội… hiệp nhất trong khối đại đoàn kết toàn dân - trong đó từng Đảng viên của Đảng là nhân tố tiên phong nâng cao nhận thức, bám sát thực tiễn, giữ vững nền tảng lý luận để sẵn sàng vượt qua thách thức mới của thời đại mới. Một lần nữa, nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị nhấn mạnh lại lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta thật là vĩ đại, nhân dân ta thật là anh hùng” (tr.229).
Văn hóa dân tộc trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
Bàn về vai trò văn hóa - đặc biệt văn hóa dân tộc đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị thể hiện quan niệm nhất quán: văn hóa dân tộc giúp lành mạnh xã hội hiện đại. Ông xác định nhiệm vụ giữ gìn bảo tồn xây dựng phát huy văn hóa trong thời đại mới quan trọng và cấp bách như nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và phát triển kinh tế. Nhất là, để lập lại trật tự kỷ cương trong văn hóa nghệ thuật hiện nay, văn hóa dân tộc như “kháng thể” để đề kháng các “bệnh dịch” văn hóa phát sinh từ cơ chế thị trường (tr.475). Đây là sự rút kết trên cả bình diện lý luận và thực tiễn, cần được nghiêm túc nghiền ngẫm và cụ thể hóa bằng hành động: “Sở dĩ ngày nay chúng ta có quyền tự hào với nền văn hóa đậm đà bản sắc Việt Nam cũng là vì dân tộc ta không chỉ biết sáng suốt chọn lựa, phát huy, tiếp thu những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của thế giới mà còn biết kiên quyết từ chối, đào thải những “độc tố” của văn hóa ngoại lai” (tr.476).
Từ thế hệ trước đến thế hệ sau, trong dòng sinh mệnh văn hóa dân tộc, văn hóa có thể được hiểu như kết tinh của lao động sáng tạo qua nhiều thế hệ, để cuối cùng vươn đến các giá trị chân - thiện - mỹ. Nhà nghiên cứu nhấn mạnh bản lĩnh văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam: “Đảng ta luôn nhấn mạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải đi đôi với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Nhấn mạnh tính dân tộc, đồng thời tính khoa học và đại chúng, tính tiên tiến gắn liền với yêu cầu phải đậm đà bản sắc dân tộc. Đó chính là bản lĩnh văn hóa Việt Nam” (tr.481). Trong đó, con người là chủ thể sáng tạo, lưu giữ, biến đổi, phát triển văn hóa theo điều kiện nội tại và ngoại hiện; đồng thời là đối tượng tiếp nhận, tiêu thụ văn hóa. Do đó, văn hóa - nói cách khác là giá trị được con người lưu thông trong cấu trúc cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng. Bình diện văn hóa vật thể lẫn phi vật thể đều cho thấy tác động của văn hóa đến sự phát triển xã hội trên cả mặt tinh thần lẫn vật chất. Theo nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị, văn hóa có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Nhận định của ông trong bài phát biểu tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (ngày 16/7/1998) “Về vai trò của văn hóa trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta” đến nay còn nguyên giá trị. Bởi văn hóa không chỉ đóng vai trò quan trọng mà hiện nay trở thành nền công nghiệp văn hóa. Một mặt đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội; mặt khác giúp lan tỏa, xuất khẩu văn hóa dân tộc ra thế giới, đưa hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến gần hơn bạn bè quốc tế. Vì vậy, có thể nói, nền công nghiệp văn hóa dựa trên nền tảng văn hóa truyền thống dân tộc góp phần quan trọng vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và đất nước Việt Nam.
Văn hóa vốn dĩ hình thành từ quá trình sinh khởi, vận động, biến đổi, phát triển của đời sống con người qua nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Về căn bản, văn hóa đã gắn bó mật thiết với quá trình phát triển của đời sống xã hội. Những phân tích của nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị giúp ta nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn về vấn đề này. Theo ông, văn hóa không chỉ gắn liền quá trình phát triển mà còn là động lực và mục tiêu phát triển:“Lịch sử nhân loại và lịch sử nước ta đã chứng minh: văn hóa, với tư cách là sáng tạo của những thế hệ người luôn là động lực phát triển của xã hội. Văn hóa với chức năng hướng con người tới những giá trị chân thiện mỹ, tác động tới các cá thể người khiến họ trở thành các nhân cách văn hoá, luôn luôn là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Dõi theo bước đi của lịch sử, chúng ta thấy xã hội nào cũng vậy, muốn phát triển không thể thiếu vắng những con người có tầm cao văn hóa. Họ là hiện thân của mục tiêu, động lực thúc đẩy xã hội phát triển” (tr.507-508).
Xuyên suốt cuốn sách, Phạm Quang Nghị triển khai vấn đề nghiên cứu bằng phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Đó là nhãn quan biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Nhà nghiên cứu bám sát thực tiễn để soi chiếu những vấn đề lý luận, từ đó đúc kết và tăng cường thêm sự vững chắc của nền tảng lý luận xã hội chủ nghĩa. Trong vấn đề văn hóa cũng không ngoại lệ, ông đưa vào thực tiễn và phân tích từng lĩnh vực cụ thể (văn hóa thông tin, kinh tế, giáo dục…), nêu ra đường hướng phương pháp và hoạt động cụ thể để đạt được mục tiêu đề ra. Vì vậy, dễ nhận thấy ở trang viết của Phạm Quang Nghị tư duy của nhà nghiên cứu đồng thời là tầm nhìn chiến lược của nhà hoạch định.
Tập sách “Công cuộc đổi mới, tư duy mới, thực tiễn mới” đề cập tới nhiều bình diện đời sống khác nhau qua đó khơi dậy hào khí giống nòi, niềm kiêu hãnh về truyền thống văn hóa và lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam. Kiến giải của nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị góp phần củng cố và làm sâu sắc thêm niềm tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định đổi mới là con đường tất yếu để đất nước phát triển bền vững. Quan trọng hơn, tập sách truyền cảm hứng cho độc giả, đặc biệt là thế hệ trẻ về khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh. Không chỉ có giá trị trong bối cảnh những năm 1980 - 1990, tác phẩm vẫn mang tính thời sự trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đang đối mặt với những thách thức mới của cách mạng công nghiệp. Những tư tưởng cùng những bài học được đề cập trong tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị và có thể áp dụng trong việc giải quyết các vấn đề hiện tại, hướng đến kỷ nguyên mới.
Tập sách “Công cuộc đổi mới, tư duy mới, thực tiễn mới” (2025) thể hiện tâm huyết, bản lĩnh và tư duy lý luận vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin của nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị. Mỗi trang viết đều mang dấu ấn tư duy biện chứng sắc bén, chặt chẽ và luôn bám sát thực tiễn. Trong đó, ông nhấn mạnh, tư duy đổi mới phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn mới; đổi mới tư duy là tiền đề và là quá trình liên tục, lâu dài, chỉ những người thực sự yêu nước thương dân mới có thể soi chiếu giữa lý luận và thực tiễn, từ đó không ngừng kiện toàn và làm bền vững thêm nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cùng với đổi mới tư duy, nhà nghiên cứu Phạm Quang Nghị nhấn mạnh vai trò nhân tố con người đáp ứng công cuộc đổi mới. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp hiện nay, những đúc kết từ thực tiễn của ông sẽ là bài học kinh nghiệm quý giá giúp thế hệ sau tiếp tục phát huy tiềm năng sáng tạo, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đề cao vai trò con người cũng là cách ông làm sáng tỏ thêm mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa ý Đảng, lòng dân - nguồn sức mạnh vô địch đã đưa dân tộc qua những giai đoạn cam go của lịch sử. Hướng đến lòng dân, qua sự phân tích nghiền ngẫm của Phạm Quang Nghị, cho thấy giá trị dân tộc và giá trị nhân bản nói chung luôn hòa quyện nhau được đề cao. Trong đó, văn hóa truyền thống dân tộc như nền tảng cốt lõi, là nguồn động lực cũng như mục tiêu phát triển xã hội. Văn hóa truyền thống dân tộc hài hòa trong bối cảnh đối thoại đa văn hóa; vừa gìn giữ bảo tồn vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa trên thế giới, làm giàu đẹp thêm cho nền văn hóa Việt Nam. Tập sách soi sáng thêm những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới. Đó cũng là một sự bày tỏ chân thành niềm tin và ý chí kiên định với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; góp phần căn bản nâng cao việc phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam./.