Hoạt động hội

Văn minh sông Hồng: Kết nối và lan tỏa

Thụy Phương 21:21 18/08/2025

Sáng ngày 18/8, tại hội trường Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội, Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội đã tổ chức tọa đàm khoa học chủ đề “Văn minh sông Hồng: Kết nối và lan tỏa” với sự tham dự của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, khảo cổ học và các hội viên của hội.

Tại buổi tọa đàm, với phần trình bày công phu và tâm huyết, PGS.TS Nguyễn Quang Miên đã tập trung làm sáng tỏ những đặc trưng nổi bật của văn minh sông Hồng cùng những ảnh hưởng cũng như khả năng lan tỏa của nền văn minh này trong đời sống hiện nay.

Theo PGS.TS Nguyễn Quang Miên, trong lịch sử nhân loại, những nền văn minh lớn thường hình thành bên những dòng sông lớn như: văn minh sông Nile ở Ai Cập, văn minh Lưỡng Hà ở Iraq, văn minh sông Hằng ở Ấn Độ, văn minh Hoàng Hà ở Trung Quốc… Ở Việt Nam, lưu vực sông Hồng – dòng sông mẹ của đồng bằng Bắc Bộ được xem là chiếc nôi của một nền văn minh lâu đời, rực rỡ suốt hàng nghìn năm, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dựng nước và giữ nước.

z6920498268786_ac283cff81533de39a1c1ed1d3421067.jpg
PGS.TS Nguyễn Quang Miên trình bày về những đặc trưng nổi bật của văn minh sông Hồng tại tọa đàm.

Sông Hồng dài hơn 1.200 km, bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc), khi đổ về đồng bằng đã mang theo phù sa màu mỡ bồi đắp nên vùng đất rộng lớn, tạo điều kiện hình thành các vùng dân cư trù phú, trải dài từ trung du đến đồng bằng và những dải đất thấp ven biển. Điều kiện tự nhiên thuận lợi, khí hậu cận nhiệt đới ẩm gió mùa cùng nguồn lợi thủy sản phong phú đã giúp cư dân sớm thích nghi, sáng tạo phương thức sản xuất và hình thành văn minh lúa nước đặc trưng.

Sự xuất hiện của các khu cư trú sớm đã được khẳng định trong các nền văn hóa khảo cổ như Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn, Soi Nhụ… với các di chỉ nổi tiếng đã được giới học giả trong nước và quốc tế công nhận như Hang Chổ, Hang Xóm Trại, Mái đá Thần Sa, Mái đá Làng Vành, Tràng An, Con Moong… “Đó là những lớp cư dân của nền văn hóa Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun. Tiếp nối truyền thống trước, kết tinh từ quá trình lao động sản xuất, chế tạo công cụ, vật dụng, đồ trang sức, mỹ nghệ phục vụ nhu cầu làm đẹp và tâm linh cho cá nhân và cộng đồng, người xưa đã dần phát triển nền văn minh mang bản sắc riêng”, PGS.TS Nguyễn Quang Miên khẳng định.

Tại buổi tọa đàm, PGS.TS Nguyễn Quang Miên đã đề cập tới những đặc trưng nổi bật của văn minh sông Hồng. Theo ông, một trong những thành tựu rực rỡ nhất của văn minh sông Hồng là nền nông nghiệp lúa nước. Người Việt cổ không chỉ biết canh tác, thuần dưỡng vật nuôi làm sức kéo mà còn biết làm thủy lợi, đắp đê ngăn lũ, dự báo thiên tai. Dấu tích hạt lúa cháy, tượng trâu bò, công cụ sản xuất... tìm thấy ở các di chỉ đã chứng minh sự phát triển vượt bậc này.

Cùng với nông nghiệp, nghề luyện kim và chế tạo đồ đồng cũng là một nét đặc trưng nổi bật của văn minh sông Hồng. Trong giai đoạn văn hóa Đông Sơn, nghề luyện kim và chế tạo đồng đã có những bước tiến vượt bậc cả về kỹ thuật và mỹ thuật, thể hiện rõ qua các hiện vật như rìu, giáo, dao, mũi tên, lưỡi cày, đồ trang sức, nhạc cụ và đặc biệt là trống đồng. Hoa văn trên trống đồng phản ánh tư duy thẩm mỹ, vũ trụ quan, nhân sinh quan của cư dân nông nghiệp lúa nước, đồng thời cho thấy trình độ kỹ thuật đúc kim loại bậc thầy của người Việt cổ.

Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc ra đời từ nhu cầu liên kết cộng đồng trong sản xuất và chống thiên tai, ngoại xâm. Từ các bộ lạc nhỏ lẻ, cư dân sông Hồng đã gắn kết, hình thành mối liên minh mới, đứng đầu là các vua Hùng – dấu mốc khởi đầu của Nhà nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc.

Đề cập tới nét đặc trưng của nền văn minh sông Hồng, PGS.TS Nguyễn Quang Miên cũng đã đưa ra những minh chứng cụ thể về sự phong phú trong đời sống văn hóa nghệ thuật, tín ngưỡng tôn giáo. Ông dẫn chứng: người Việt cổ thờ các vị thần tự nhiên (thần núi, thần sông, thần rừng), thờ ông bà tổ tiên, thờ Mẫu, thờ các đức thánh (Thánh Gióng, Tản Viên, Chử Đồng Tử…); thờ vua Hùng, thờ Thành hoàng làng. Nhiều tín ngưỡng và lễ hội vẫn còn được lưu giữ đến hôm nay, trong đó nhiều loại hình văn hóa phi vật thể đã trở thành di sản được UNESCO công nhận.

PGS.TS Nguyễn Quang Miên cho biết, văn minh sông Hồng luôn trong quá trình giao lưu, tiếp biến. Trong tiến trình lịch sử, văn minh sông Hồng đã hội nhập với nhiều loại hình tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Kitô giáo… nhưng vẫn giữ được nét bản địa của nền văn minh gốc. Dấu tích trống đồng Đông Sơn tìm thấy ở nhiều quốc gia Đông Nam Á cho thấy sức lan tỏa rộng của nền văn minh này.

Đặc biệt, nhiều giá trị của văn minh sông Hồng còn hiện diện trong đời sống hôm nay, từ kỹ thuật canh tác lúa nước, nghề thủ công truyền thống, kiến trúc, lễ hội, âm nhạc, đến tín ngưỡng dân gian. Đây chính là sức sống bền bỉ, chứng tỏ khả năng thích ứng và sáng tạo không ngừng của người Việt.

Tại tọa đàm, các đại biểu đánh giá cao phần trình bày công phu, sâu sắc của PGS.TS Nguyễn Quang Miên, đồng thời cùng trao đổi, thảo luận nhằm làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến văn minh sông Hồng. Các nội dung được tập trung phân tích gồm: hiện tượng khảo cổ học gắn với tín ngưỡng; dấu ấn và sự giao thoa của văn minh sông Hồng; việc duy trì và phát huy các giá trị văn minh; môi trường tự nhiên và khả năng thích ứng; đặc trưng nông nghiệp lúa nước; giá trị của trống đồng Đông Sơn; cũng như những yếu tố có thể trở thành lực cản trong quá trình phát triển hiện nay. Từ đó, nhiều câu hỏi được đặt ra và giải đáp, như: văn minh Việt đã chuyển biến như thế nào, lan tỏa ra sao và lan tỏa những giá trị gì; bản sắc cốt lõi của văn minh Việt là gì; con người ứng xử với tự nhiên, với đồng loại và trong cộng đồng ra sao.

Văn minh sông Hồng là kết tinh của hàng nghìn năm lịch sử, là cội nguồn bản sắc và sức mạnh tinh thần của dân tộc Việt Nam. Việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị của văn minh sông Hồng không chỉ giúp hiểu rõ cội nguồn dân tộc mà còn mở ra hướng khai thác, phát huy trong đời sống đương đại./.

Thụy Phương