Sân khấu

Một đời đau đáu với nghệ thuật truyền thống

Thụy Phương 08:32 03/08/2025

Sinh ra tại làng Phù Lưu Thượng (Ứng Hòa, Hà Nội), một vùng đất giàu truyền thống nghệ thuật, nơi có các đoàn chèo, đoàn cải lương vang bóng một thời như Cổ Phong, Lúa Mới, Hoa Mai, cậu bé Xuân Cung sớm hình thành tình yêu với nghệ thuật truyền thống. Ông kể ngay từ khi còn nhỏ ông đã say mê những làn điệu chèo bay bổng, những trích đoạn tuồng đậm chất dân gian, những bài dân ca trữ tình sâu lắng.

anh-xuan-cung-1.jpg
Soạn giả, nhà viết kịch Xuân Cung - người luôn đau đáu với nghệ thuật truyền thống. Ảnh: Đặng Thủy

Hồi ấy, cứ đến trưa khi Đài tiếng nói Việt Nam phát chương trình dạy hát chèo là cậu bé Xuân Cung lại say sưa học theo. Mỗi lần có đoàn nghệ thuật về làng bên biểu diễn, dù trời tối mịt hay đường đất bùn lầy, cậu cũng xin đi xem cho bằng được. Những lời ca, nhịp phách, tiếng đàn cứ ngấm dần vào cậu bé từ khi nào chẳng rõ. Không chỉ nghe rồi để đấy, Xuân Cung còn mày mò chép lại, rồi học thuộc, thậm chí sáng tác lời mới cho những điệu chèo đã nằm lòng. Thời điểm ấy, ông chưa từng nghĩ mình sẽ trở thành một nghệ sĩ chuyên nghiệp, chỉ biết những làn điệu cổ truyền đã khiến ông say mê đến thiết tha.

Bước ngoặt nghệ thuật đầu tiên đến với nghệ sĩ Xuân Cung là vào năm 1969 khi bài dân ca “Ánh sáng soi đường” do ông viết lời được NSƯT Như Hoa thể hiện trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Khi nghe giọng hát ngân lên, ông đã nghẹn ngào bởi giấc mơ thuở nhỏ bỗng trở thành hiện thực. Từ cột mốc ấy, Xuân Cung bước chân vào con đường sáng tác chuyên nghiệp, trở thành cộng tác viên thường xuyên của các chương trình dân ca, kịch truyền thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam.

Dẫu không qua trường lớp đào tạo chuyên sâu về nghệ thuật nhưng Xuân Cung lại gặt hái được nhiều thành công nhờ sự tích lũy tìm tòi, sự bền bỉ học hỏi, cùng tình yêu sâu đậm với nghệ thuật. Ông lặn lội tìm đến các nghệ nhân bậc thầy như Cả Tam, Trùm Thịnh, Dịu Hương, Nguyệt Tiêm… để học hỏi, lĩnh hội kinh nghiệm; tham gia đợt tập huấn về phương pháp sáng tác chèo do Bộ Văn hóa và Nhà hát Chèo Việt Nam tổ chức.

Là người linh hoạt trong sáng tạo, nghệ sĩ Xuân Cung không khư khư giữ truyền thống một cách giáo điều mà biết cách làm mới, chắt lọc, pha trộn để phù hợp với thời đại. Tính đến nay, soạn giả, nhà viết kịch Xuân Cung đã cho ra hàng trăm tác phẩm chèo, cải lương, kịch truyền thanh. Ông đã xuất bản 7 tập kịch bản sân khấu, 2 băng đĩa CD những bài hát chèo đi cùng năm tháng, 2 tập bài hát dân ca nhạc cổ truyền. Một số kịch bản chèo, tuồng, cải lương của ông được giới chuyên môn và công chúng đánh giá cao như: “Người con gái tóc mây”, “Mối tình huyền thoại”, “Thăng Long kỹ nữ” (cải lương); “Trạng Bùng”, “Nước mắt người mẹ”, “Chuyện tình Quế Dương”, “Cuộc tình bất hạnh”, “Tuổi thơ nước mắt”, “Cam Quýt Bưởi Bòng” (chèo); “Nữ tướng Thục Nương”, “Bài ca đất nước”, “Bóng thù biên ải” (tuồng). Ông cũng viết nhiều kịch bản ngắn, kịch vui, trong đó có những vở tham dự hội thi và giành giải thưởng văn học - kịch như các vở: “Sao Thái Dương”, “Người gác cổng trường”, “Nỗi đau từ AIDS”, “Chuyện bất ngờ”, “Cái sảy nảy cái ung”, “Hoa trái mùa”… Đặc biệt, Đài Tiếng nói Việt Nam còn giới thiệu nhiều chương trình của riêng nghệ sĩ trong các buổi hát chèo, hát cải lương, tiếng hát gửi về Nam, gửi đồng bào xa Tổ quốc. Ông còn là tác giả duy nhất được trao giải thưởng Người viết bài hát chèo được nhiều người yêu thích do Đài Tiếng nói Việt Nam bình chọn.

anh-xuan-cung-2.jpg
Ở tuổi gần 80, soạn giả Xuân Cung (ngoài cùng bên trái) vẫn bền bỉ sáng tác, truyền dạy và lan tỏa tình yêu nghệ thuật truyền thống đến cộng đồng.

Soạn giả Mai Văn Lạng - Trưởng phòng Dân ca Đài Tiếng nói Việt Nam nhận định: “Những tiết mục hát chèo, hát cải lương, hát dân ca do Xuân Cung sáng tác luôn đằm thắm thiết tha, mang nặng hồn quê đất nước. Xuân Cung viết bằng trải nghiệm thực tế, bằng cảm nhận tinh tế và cao hơn nữa viết bằng cả tâm hồn, tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước quê hương. Cũng bởi thế, nhiều bài hát, ca cảnh của Xuân Cung luôn được thính giả yêu thích”.

Điểm dễ nhận thấy trong tác phẩm của soạn giả Xuân Cung là sự giản dị mà sâu sắc. Tác phẩm của ông mang đậm chất liệu đời sống, được chắt lọc từ trải nghiệm thực tế, kiến thức sâu rộng và đặc biệt là tình yêu tha thiết với quê hương đất nước. Nhiều tác phẩm của ông gắn với Hà Nội không chỉ bởi cảm hứng nghệ thuật, mà còn bởi tình yêu sâu sắc với Thủ đô - nơi ông sinh ra, lớn lên và cống hiến suốt cuộc đời.

“Hà Nội - mảnh đất linh thiêng ngàn năm văn hiến là nguồn cảm hứng lớn trong các sáng tác của tôi. Tôi đã viết rất nhiều tác phẩm về Hà Nội, ở nhiều thể loại từ tuồng chèo, cải lương, rồi kịch... Về kịch có thể kể đến “Ông Trạng vùng Đoài”, “Người mẹ Khu Cháy”, “Người nữ anh hùng”, “Thăng Long tráng sĩ”... Về chèo, có thể kể tới bài hát: “Chào Thăng Long - Hà Nội”, “Thủ đô anh hùng”, “Linh thiêng Hà Nội”, “Hà Nội nhớ ngày giải phóng Thủ đô” “Hà Nội ngàn năm văn hiến”, “Nhớ xưa Hà Nội 36 phố phường”, “Yêu sao Hà Nội” và còn có nhiều sáng tác viết riêng cho các quận, huyện Hà Nội như “Đất lụa Hà Đông”, “Thanh Oai quê ta”, “Hát về Thường Tín”, “Phú Xuyên anh hùng”, “Phù Lưu Thượng quê tôi”, “Hát với Quốc Oai”, “Hát cùng Hoài Đức”...., soạn giả, nhà viết kịch Xuân Cung chia sẻ.
Những năm tháng còn công tác, dù công việc bận rộn (nghệ sĩ Xuân Cung từng đảm nhiệm nhiều vị trí như: cán bộ phụ trách văn nghệ Phòng Văn hóa huyện Chương Mỹ, cán bộ Phòng Sáng tác tiết mục sân khấu Ty Văn hóa Hà Đông, Chánh Văn phòng rồi Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Hà Tây, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Tản Viên Sơn, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội, Chi hội trưởng Chi hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam) nhưng ông vẫn tranh thủ mọi thời gian có thể để cống hiến cho nghệ thuật. Ông từng tham gia biên tập và cố vấn cho nhiều chương trình phát thanh dân ca - chèo - cải lương, góp phần nâng cao chất lượng và giữ chân khán giả yêu nghệ thuật truyền thống. Ngoài ra, ông còn tham gia giảng dạy, truyền cảm hứng cho cộng đồng về nghệ thuật truyền thống.

Được trang bị kiến thức nghề nghiệp từ hát, múa đến biểu diễn nên nghệ sĩ Xuân Cung không chỉ có khả năng sáng tác mà còn đạo diễn, truyền dạy nghệ thuật truyền thống. Từ năm 2004, sau khi nghỉ hưu, ông bắt đầu hành trình mới, khi thì mở lớp dạy hát chèo, khi lại dàn dựng tiết mục cho các đơn vị, cơ quan, đoàn thể. Cứ nơi nào cần, ông đều có mặt, bất kể nắng hay mưa; không chỉ tại các quận, huyện Hà Nội mà còn ở nhiều tỉnh, thành thuộc đồng bằng Bắc Bộ như Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Hòa Bình. Nhiều người vẫn nhắc đến ông như một “người thầy thầm lặng” đầy trách nhiệm và tâm huyết.

“Trước buổi dạy, tôi thường chuẩn bị giáo án, nếu lớp có bảng tôi viết chi tiết lên bảng từng phách nội - phách ngoại rồi các làn điệu như hát sắp, hát sa lệch, hát cách, hát đường trường, hát hề mồi... Tôi hướng dẫn từng câu, từng đoạn cho tới khi họ biết hát, biết diễn mới thôi”, ông chia sẻ. Với các lớp nâng cao, ông trực tiếp truyền dạy những làn điệu có tính cách đặc trưng như Bình thảo, Cấm giá, Sắp song loan, Gà rừng, Bà chúa con cua… thông qua tác phẩm cụ thể. Nhiều nơi ông dạy theo từng giai đoạn để bà con phục vụ lễ hội, hội làng, hội thi. Đặc biệt, có những địa phương ở ngoại thành Hà Nội ông gắn bó trong nhiều năm như: Cao Thành, Giang Triều, Đại Cường, Xà Kiều (Ứng Hòa); Vĩnh Lộc, Thư Phú (Thường Tín); Nhị Khê, Nhân Vực, Trung Lập (Phú Xuyên); Đa Sỹ, Kiến Hưng (Hà Đông); Liên Hồng (Đan Phượng); Lam Điền, Hoàng Diệu (Chương Mỹ); Đông Bình (Mỹ Đức); Vân Canh (Hoài Đức); Hải Bối (Đông Anh)...

Với sự tận tâm và tình yêu dành cho nghệ thuật truyền thống, soạn giả Xuân Cung đã góp phần lan tỏa chèo, tuồng, cải lương đến tận cộng đồng. Nhiều tiết mục do ông hướng dẫn không chỉ làm phong phú đời sống văn nghệ ở cơ sở mà còn giành được giải cao (17 Huy chương Vàng, 5 Huy chương Bạc) tại các hội thi, hội diễn, được người dân yêu mến và trân trọng.

Hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghệ thuật truyền thống, soạn giả, nhà viết kịch Xuân Cung đã được trao tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huy chương Chiến sĩ văn hóa, Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Huy chương Vì sự nghiệp sân khấu Việt Nam, Huy chương Vì sự nghiệp văn hóa quần chúng... và nhiều bằng khen khác. Ở tuổi gần 80, ông vẫn bền bỉ sáng tác, truyền dạy và lan tỏa tình yêu nghệ thuật đến cộng đồng. Với ông, nghệ thuật dân tộc muốn sống được thì phải bám rễ vào đời sống, và hành trình của ông chính là nhịp cầu để đưa nghệ thuật đến gần hơn với công chúng./.

Thụy Phương