Nhà văn Lê Minh Khuê xa & gần
Nhà văn Lê Minh Khuê (sinh năm 1949, tại xã An Hải, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa) từng là phóng viên Đài Phát thanh Giải phóng, Báo Tiền phong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ; sau 1975 là phóng viên Đài Truyền hình Việt Nam, biên tập viên Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Hiếm có cây bút nào như chị, ba lần đạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1987, 2000, 2016), Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (2012), Giải thưởng liên hoan thường niên văn học Quốc tế mang tên Byeong-ju Lee của Hàn Quốc (2008). Những năm tháng làm báo đã cho nhà văn một vốn sống dồi dào. Báo và văn quấn quyện, soi chiếu, phát tỏa nhau trong một thứ ngôn ngữ bình dị, hàm súc và tinh tế trên từng trang viết của Lê Minh Khuê.
Trong chương trình Ngữ văn phổ thông 2018, truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” (1971) của Lê Minh Khuê vẫn được đánh giá là tác phẩm cần cho học sinh đọc để hiểu được các thế hệ trước đã tận hiến như thế nào vì cuộc sống của nhân dân có được ngày hòa bình, thanh bình sau này. Chính cảm hứng tương lai là giá đỡ thành công cho tác phẩm xinh xắn này. Hơn 50 năm sau đọc lại “Những ngôi sao xa xôi” độc giả hôm nay vẫn cảm nhận được vẻ đẹp tinh khiết của cảnh, người và tình một thời đạn bom ngút trời.
Ít người biết chuyện năm 1965, khi chưa đầy mười sáu tuổi, đang là học trò (trường cấp 3 ở Quảng Xương, Thanh Hóa), Lê Minh Khuê đã khai tăng thêm 1 tuổi để đi Thanh niên xung phong (TNXP). Thời kỳ chiến tranh ác liệt bấy giờ có hàng ngàn, hàng vạn chàng trai cô gái đã hành động theo tinh thần tận hiến như thế. Tất cả đều háo hức lên đường với bao điều lãng mạn không riêng gì Lê Minh Khuê. Thử thách đầu tiên là… hành quân bộ, ròng rã gần nửa tháng trời lên đường 15 thuộc tuyến đường mòn Hồ Chí Minh. Cái náo nức ra tiền tuyến trực tiếp đánh giặc tạm thời bị xếp lại, lắng xuống và nhận nhiệm vụ khác. Khi được phân công đi gánh đất lấp hố bom thì không khỏi ngỡ ngàng (“Tôi ngạc nhiên khi người ta bảo tôi đi gánh đất.
Thanh niên xung phong như thế này à? Gánh đất? Tôi không tưởng tượng thế. Thanh niên xung phong phải vác súng kia, đi rầm rộ dưới những cánh rừng không trăng sao. Nói với nhau phải mạnh và gọn như những câu khẩu hiệu. Nhưng cũng đi gánh đất rồi quen dần”- một đoạn trích trong truyện “Những ngôi sao xa xôi”).
Lửa thử vàng gian nan thử sức. Cô TNXP nhỏ bé ấy rồi cũng trưởng thành không thua em kém chị. Sau hơn một năm làm quen với nỗi nhớ nhà cồn cào, với nắng gió Trường Sơn, với đói khổ, đạn bom chết chóc, Lê Minh Khuê đã dạn dày, giống như cái cây được bứng ra khỏi giàn che, nay đặt giữa trời, có thể chịu được mọi biến đổi thử thách của thiên nhiên như “thép đã tôi thế đấy”. Nhưng một trận ốm đã bứt chị ra khỏi mặt đường với bao công việc gian nan. Chính trong những ngày điều dưỡng sức khỏe, Lê Minh Khuê đã phát hiện khả năng viết của mình. Cái ý nghĩ phải cầm bút viết lóe lên, thôi thúc chị. Những bài báo đầu tiên được đăng năm 1967 đã khiến nữ TNXP Lê Minh Khuê đứng trước một ngã rẽ. Rồi như một thôi thúc tự nguyện, một nhu cầu nội tâm, Lê Minh Khuê cứ thế viết. Chị viết chuyện về bạn bè trên cùng cung đường, về đơn vị, về tuổi trẻ đầy cảm hứng lãng mạn.
Những ghi chép, phóng sự, truyện ngắn,… của Lê Minh Khuê cứ in đều trên báo chí. Cái tên Lê Minh Khuê dần dần trở nên quen thuộc với độc giả. Khi đã “hòm hòm” lưng vốn chữ nghĩa thì Lê Minh Khuê dùng bút danh Vũ Thị Miền. Một cái tên nghe giản dị không thể nào giản dị hơn. Nhưng đến tận thời điểm này thì độc giả yêu văn chương nhất nhất chỉ nhớ có một cái tên Lê Minh Khuê.
Năm 1969, sau bốn năm khoác áo TNXP, Lê Minh Khuê chuyển ngành. Không phải không có tiêu chuẩn và cơ hội đi học nước ngoài, nhưng chị đã có một lựa chọn mà sau này khi đã ngoài tuổi thất tuần, nhìn lại thời trẻ, chị nói mình không ân hận về sự lựa chọn có tính bước ngoặt này, lúc chỉ mới tròn 20 tuổi. Trở thành phóng viên chiến tranh của báo Tiền Phong, Lê Minh Khuê lại một mình một ngựa, rong ruổi ngược xuôi trên những nẻo đường lầm lụi khói lửa, đạn bom gầm rít, cái chết và sự hủy diệt kề cận. Vì thế đi và viết là cái “nghiệp” có tính chất “tiền định” với Lê Minh Khuê. Sau này khi chuyển sang làm phóng viên Đài Phát thanh Giải phóng, đi chiến trường (ngày đó gọi là đi B), chị vẫn giữ trong mình nhiệt huyết và đam mê ấy.
Tháng 4/1975, Lê Minh Khuê có mặt trong đoàn quân tiến vào giải phóng Đà Nẵng. Nói sao hết niềm vui vỡ òa khi đất nước hòa bình, nhà nhà đoàn tụ trong niềm vui thống nhất non sông. Nhưng dường như với sự mẫn cảm đặc biệt, Lê Minh Khuê đã sớm nhìn thấu những mâu thuẫn tiềm ẩn do cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt để lại. Cũng bởi những trải nghiệm đời sống từ nghề báo đem lại nên nhà văn đã “nghe” được bước đi âm thầm của lịch sử, đã “đón” được những cơn bão của lòng người, đã hình dung ra những điều “sái” của nhân tâm thời đại chuyển từ chiến tranh sang hòa bình (Nhiệt đới gió mùa là một trong những truyện ngắn hay nhất trên văn đàn đương đại về chiến tranh và hậu chiến).
Nghề báo đã giúp nghề văn, có hiệu quả đắc lực trong sáng tác văn chương của Lê Minh Khuê. Sau 1975, một thời gian ngắn chị đầu quân cho Đài Truyền hình Việt Nam. Lại được đi đây đi đó, thỏa chí tang bồng trong khung cảnh thời bình. Nhưng tâm tư tình cảm thì nghiêng hẳn về văn chương “ngày báo đêm văn”. Và cuộc chuyển đổi ngoạn mục đã diễn ra như một tất yếu. Lần này thì không có ý phân vân khi lựa chọn, mà là sự sắp xếp hợp lẽ tự nhiên của nghề cầm bút, của số phận.
Năm 1978, Lê Minh Khuê chuyển hẳn sang văn chương, tính từ ngày về công tác tại Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới, năm 1978 (nay là Nhà xuất bản Hội Nhà văn). Chị là một biên tập viên vững tay nghề, một “bà đỡ” mát tay. Làm nghề này chị có điều kiện tiếp xúc với nhiều nhà văn, đọc nhiều bản thảo, đồng nghĩa với việc sống thêm nhiều cuộc sống khác. Đây là một cơ hội trải nghiệm sống và trải nghiệm văn hóa, như là hai điều kiện cần và đủ đối với một người viết văn.
Có người nhận định Lê Minh Khuê là nhà văn nữ có cái khả năng “trụ hạng” của một vận động viên tài năng đẳng cấp - theo cách nói của thể thao - chỉ trung thành viết truyện ngắn từ khởi đầu cho đến tận bây giờ, khi đã vào đội hình U80. Tính đến năm 2023, nhà văn đã sở hữu 14 tập truyện ngắn với khoảng 200 truyện. Lê Minh Khuê được coi là một “cây truyện ngắn” tài năng trên văn đàn đương đại Việt Nam. Cũng không nhiều người biết rằng đến nay, những truyện ngắn hay của chị đăng trên các báo chí vẫn được viết bằng bút mực, trên giấy A4. Chị từng chia sẻ mình chỉ có cảm xúc thực sự mạnh trên trang giấy với mùi mực thơm thơm quen thuộc.
Cái đẹp là sự giản dị như một nguyên lý thẩm mỹ được nhiều nhà văn ứng dụng trong thực hành sáng tác. Lê Minh Khuê đã tuân thủ nguyên tắc này ngay từ những ngày đầu cầm bút viết văn cho đến tận hôm nay. Truyện ngắn của Lê Minh Khuê đã được dịch ra tiếng Anh, được đọc ở nhiều nước như Mỹ, Đức, Thụy Điển, Hàn Quốc. Không phải ngẫu nhiên mà tờ Thời báo New York đã nhận xét: “Dù xảy ra trong quá khứ hay hiện tại, những truyện ngắn sắc sảo, đôi lúc buồn cô quạnh trong tập truyện của Lê Minh Khuê đều chịu ảnh hưởng sâu đậm của chiến tranh. (...). Qua bản dịch, tác giả đã hiện ra, một người có văn phong đẹp, nghiêm trang cùng với sự châm biếm tinh tường, đồng thời có khả năng trong những nhận xét đầy khơi gợi” (Lê Minh Khuê - Truyện ngắn chọn lọc, NXB Phụ nữ, 2003).
Lê Minh Khuê là một ngòi bút có sức bền. Tôi có kỷ niệm khó quên về nữ nhà văn tài năng. Năm 1987, Lê Minh Khuê nhận Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam với tập truyện ngắn Một chiều xa thành phố. Ban Lý luận - Phê bình báo Văn nghệ đặt tôi viết một bài nhân sự kiện nhà văn nhận giải thưởng. Bài viết của tôi có nhan đề Sức bền của ngòi bút. Người phụ trách trang này, khi nhận bài của tôi đã sửa bằng cách thêm vào đầu nhan đề một chữ “Để” (thành Để có sức bền của ngòi bút). Và tôi được giải thích “Thêm một chữ để, tức là người phê bình phải có con mắt đón đợi và cần biết chờ đợi thành công từ một nhà văn!”. Tôi đem chuyện này nói lại với Lê Minh Khuê, chị bảo đó là thói quen nghề nghiệp làm báo, thói quen của người “gác cửa”, bất luận ai cũng không thể hành xử khác nếu ở địa vị ấy. Nhưng bây giờ thì đoán định và khẳng định của tôi cách nay 37 năm là hoàn toàn ứng vào thực tiễn. Trong những gương mặt nhà văn có thành tựu văn chương nhờ chỉ viết truyện ngắn sau 1975, theo cách “điểm danh” của tôi có: Nguyễn Minh Châu, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp, Sương Nguyệt Minh, Dạ Ngân, Trần Thùy Mai, Võ Thị Xuân Hà, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư.
Có thể nói, hiếm hoi có hiện tượng “2 trong 1” - nhà báo, nhà văn tài năng như Lê Minh Khuê. Tôi tin tưởng như thế./.