Văn hóa – Di sản

Nguyễn Vạn Hạnh – nhà trính trị, thiền sư, thi sĩ

Nguyễn Hữu Sơn 24/10/2023 11:27

Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) gốc họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp, phủ Thiên Đức (nay thuộc phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng Thiền Nam phương Tì Ni Đa Lưu Chi. Ông học thông tam giáo (Nho - Phật - Đạo), từng gắn bó với triều vua Lê Đại hành, trải qua thời Lê Trung Tông, Lê Ngọa Triều rồi đến Lý Thái Tổ.

tuong-thien-su-van-hanh.jpg
Tượng Thiền sư Vạn Hạnh.

Trên phương diện chống giặc ngoại xâm, Nguyễn Vạn Hạnh sớm tham gia hoạch định việc quân cơ với nhà Tiền Lê: “Bấy giờ sư nói ra điều gì, thiên hạ đều coi như lời sấm ngữ. Vua Lê Đại Hành đặc biệt tôn kính sư. Năm Thiên Phúc thứ nhất (980), nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo đem quân sang xâm lược nước ta, đóng quân ở gò Tử Cương núi Giáp Lãng. Vua mời sư đến hỏi tình thế thắng bại thế nào. Sư đáp: “Chỉ trong ba, bảy ngày giặc tất phải tan”. Sau quả đúng như thế. Vua muốn đi đánh Chiêm Thành, cùng bàn bạc với triều thần, nhưng chưa quyết. Sư tâu vua xin cấp tốc tiến quân, nếu không sẽ lỡ dịp. Vua bèn đem quân đi đánh, quả nhiên thu được toàn thắng”...

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép việc Nguyễn Vạn Hạnh sớm có mối liên hệ với Lý Thái Tổ: “Vua sinh ra mới 3 tuổi, mẹ ẵm đến nhà Lý Khánh Văn. Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi. Bé đã thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường. Lúc còn nhỏ đi học, nhà sư ở chùa Lục Tổ là Vạn Hạnh thấy, khen rằng: “Đứa bé này không phải người thường, sau này ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ”... Sau này Nguyễn Vạn Hạnh chính thức vừa có sấm ngữ, làm thơ yết bảng tuyên truyền, trực tiếp bàn luận với chú bác người nhà Thân vệ Lý Công Uẩn và cùng quan Chi hậu Đào Cam Mộc khuông phò Công Uẩn lên làm vua. Sách Thiền uyển tập anh (1337) chép việc ban đêm sư ngồi nhập định, nghe xung quanh ngôi mộ của cha Lý Công Uẩn là Hiển Khánh đại vương có tiếng ngâm thơ đã sai người ghi chép cả bốn bài thơ, rồi viết vào biển gỗ đóng ở bốn phía quanh khu mộ. Tiếp đó sư đọc bài kệ và khẳng định: “Có lẽ chỉ trong vòng ba tháng nữa quan Thân vệ sẽ chống đỡ xã tắc, cầm giữ ấn chữ quốc”; đồng thời ghi rõ sự kiện đặt dấu mốc quan trọng cho sự ra đời một triều đại mới: “Vì thế khi Lý Công Uẩn lên ngôi, sư đang ở chùa Lục Tổ mà biết trước sự việc. Sư nói với người chú và người bác của Lý Công Uẩn: “Thiên tử đã băng hà. Lý Thân vệ đang ở nhà. Người nhà Thân vệ túc trực trong thành nội có hàng ngàn. Nội trong ngày, Thân vệ ắt sẽ được thiên hạ”. Sư bèn yết bảng ở các ngả đường:

Tật lê trầm Bắc thủy,

Lý tử thụ Nam thiên.

Tứ phương can qua tĩnh,

Bát biểu hạ bình an.

(Tật lê chìm biển Bắc,

Cây lý mọc trời Nam.

Bốn phương binh đao lặng,

Tám hướng chúc bình an)

Chú bác Lý Công Uẩn nghe xong lấy làm lo sợ, sai người ruổi gấp về Hoa Lư nghe ngóng, thì quả đúng như lời sư nói”...

Theo sách Thiền uyển tập anh, bên cạnh những bài thơ sấm ký, Nguyễn Vạn Hạnh còn để lại một bài tứ tuyệt xếp loại kiệt tác Thị đệ tử (Bảo đệ tử) - nhan đề do người đời sau đặt. Sách Thiền uyển tập anh chép rõ: “Ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 9 (1018), sư không bệnh, gọi tăng chúng đến đọc bài kệ:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.

Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Dịch nghĩa:

Đời người như bóng chớp, có rồi không,

Vạn thứ cây mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo.

Đạt đến thông hiểu rồi thì sự thịnh suy không sợ hãi,

Thịnh suy chẳng qua như giọt sương treo đầu ngọn cỏ.

Ngô Tất Tố dịch thơ:

Thân như bóng chớp, có rồi không,

Cây cối xuân tươi, thu não nùng.

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.

Sư lại bảo các đệ tử: “Các ngươi muốn đi đâu? Ta không lấy chỗ trụ mà trụ, cũng chẳng dựa chỗ vô trụ mà trụ”... Một lát sau sư qua đời. Vua cùng các quan dân làm lễ hỏa táng, xây tháp chứa xá lỵ để đèn hương phụng thờ”...

Đến với bài thơ, trước hết cần đặt thi phẩm này trong toàn cảnh kiểu truyện tiểu sử thiền sư, trong văn cảnh nhà sư làm ngay trước khi qua đời và tính chất một bài thơ - thi tụng - thơ Thiền - kệ thị tịch... Trên hết, đây là bài kệ do Vạn Hạnh đọc trước khi qui tịch và được Thiền sư giải thích rõ thêm về bản chất sự tồn tại cái bản ngã “không lấy chỗ trụ mà trụ”, “chẳng lấy chỗ vô trụ mà trụ”... Xét cho cùng, Phật giáo cũng chỉ là một cách nhìn, một cách hình dung về đời người và thế giới con người với tất cả những tham - sân - si - ái - ố - hỷ - nộ, bình đẳng cùng quan niệm và những cách giải thích khác nhau của tất cả các dòng phái triết học và tôn giáo khác trên cõi đời này.

Bài thơ mở đầu bằng sự khẳng định Thân như điện ảnh hữu hoàn vô (Đời người như bóng chớp, có rồi không). Dịch chữ THÂN là “đời người” cho dễ hiểu nhưng mới đúng theo lẽ phải thông thường mà chưa hẳn đã sát nghĩa. Trong bản chất, “thân” là biểu thị của thân nghiệp, sắc tướng, pháp tướng, hiển lộ bằng hình hài con người. Nhưng cái thân con người đã đến từ đâu, do đâu mà có và rồi sẽ đi về đâu? Khoa học hiện đại đã minh chứng thân xác con người chiếm khoảng 95% là nước. Trước khi ra đời, con người có chín tháng mười ngày nằm trong bụng mẹ, trước đó là do những chủng tử gien XX (ở mẹ) và XY (ở cha) hợp thành. Trước nữa thì ở đâu? Chính là ở trong rau cỏ, nước, không khí hội hợp thành; rồi xa hơn nữa có cội nguồn từ ông bà, cụ kỵ, tổ tiên... Đứa bé được sinh ra với vài ba ký. Nó lớn lên bằng sữa mẹ. Rồi tập ăn sam, rồi nhờ gạo, khoai, sắn, mì tôm, cải bắp, su hào, rau muống, mồng tơi, rau đay... mà thành người lớn. Vậy bản quyền cái thân xác con người năm bảy chục ký với những nước là nước và cộng hưởng từ rau cỏ kia sẽ thuộc về đâu? Còn có cái “bản ngã” nào ẩn náu đằng sau những hợp chất thân xác của nước và rau cỏ kia?

Cái “thân” con người tồn tại trên cõi đời này chỉ như điện và ảnh, như ảnh của điện, như bóng chớp, hiện hữu rồi qua đi. Chữ điện ảnh đến nay vẫn được dùng để chỉ ngành nghệ thuật thứ bảy (gọi nôm na là chớp bóng, chiếu bóng, chiếu phim). Cái “thân” con người đang hữu (có) rồi tất yếu sẽ đến ngày trở về vô (không). Nhưng theo quan niệm của Phật giáo và theo Thiền sư Vạn Hạnh, cái “thân” con người không phải từ hữu tuần tự đi đến vô mà là hoàn vô, trở về vô, về cõi hư vô - về với “Tây phương cực lạc”, “hạc giá vân du”, “thiên thu vĩnh quyết”...

Đời người hữu sinh hữu tử, có sinh tất có tử. Thế thì sau khi hân hạnh được sinh ra làm kiếp con người, mỗi ngày ta sống đây cũng tức là đang mất đi, tóc ngày một bạc phai, mắt ngày một mờ, chân ngày một chậm. Mỗi ngày ta sống đây tức là đang thêm một ngày tiến dần về điểm kết, quĩ tháng năm dần thu hẹp, “miếng da bờ” thời gian dần khép lại...

Nên hiểu rằng Phật giáo và Thiền sư Vạn Hạnh thấu triệt bản chất giới hạn sự tồn tại của thân kiếp con người nhưng tuyệt nhiên không quan niệm cuộc đời là hư vô, hư ảo, vô nghĩa. Trong thực chất, việc Thiền nhấn mạnh sự thật Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô (Vạn thứ cây mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo) chính là nhằm chỉ rõ chân lý và qui luật tồn tại của thế giới hữu hình muôn kiếp chúng sinh. Đời người có những tháng năm tuổi trẻ thì rồi sẽ đến ngày già nua, da mồi tóc bạc. Từ cuối chặng đường đời, chính Nguyễn Trãi cũng từng tiếc nuối “Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên” và nhắc nhở kẻ hậu sinh: “Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc – Đầu bạc xưa rày có thuở xanh” (Thơ tiếc cảnh)... Đời người cũng như muôn vật, có doanh thì có hư, có trưởng thì có tiêu, có thừa thì có trừ, có thăng thì có giáng... Qui luật đời người là “sinh, lão, bệnh, tử", điều gì phải đến sẽ đến, có gì mà lo sợ.

Trước thực tại về cái hữu cái vô, cái còn cái mất, cái được cái không, Thiền sư Vạn Hạnh đề cao khả năng nhận thức và nắm bắt qui luật sự sống: Nhậm vận thịnh suy vô bố uý (Đạt đến thông hiểu rồi thì sự thịnh suy không sợ hãi). Con người khi đã đạt đến trình độ “nhậm vận” tức là đã đạt ngộ, đạt tới vô cầu vô kỷ, thấu suốt trước sau, không gì làm cho bất ngờ, sợ hãi. Người “nhậm vận” hiểu rõ thời vận, qui luật cuộc đời và biết rõ ngay cả những thăng trầm số phận cũng chính là một phần tất yếu của sự sống. Câu chuyện Tái Ông thất mã không chỉ nói lên tính tương đối của sự may rủi mà còn đem đến một phương thức xử thế và niềm an ủi lớn lao. Bản thân sự thịnh - suy có thể là hiện thực tất yếu nhưng thái độ “thông hiểu”, chủ động trước thịnh - suy cũng giữ vai trò vô cùng quan trọng. Do đó người “nhậm vận” thắng không kiêu, bại không nản, không nịnh trên, không nạt dưới. Bậc đạt đạo có thể vô bố úy, không sợ thịnh, không sợ suy, tự chủ được cả khi suy cũng như khi hưng thịnh. Ngược trở lại, người đời quá “sợ suy” mà chưa biết đến “sợ thịnh”! Trong Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều từng cảnh tỉnh: Mỗi phú quý như làng xã mã Bả vinh hoa lừa gã công khanh... Giấc Nam Kha khéo bất tình – Bừng con mắt dậy thấy mình tay không!... Với tinh thần “nhậm vận", dường như Thiền sư Vạn Hạnh đã cập bến bờ giác ngộ, vượt lên hai chiều suy - thịnh, thịnh - suy...

Đến câu kết Thịnh suy như lộ thảo đầu phô (Thịnh suy chẳng qua như giọt sương treo đầu ngọn cỏ), Thiền sư Vạn Hạnh không chỉ diễn giải bản chất thịnh suy giống như giọt sương trên đầu ngọn cỏ mà còn đặt sự thịnh suy trong quá trình biến đổi, từ phía cuối con đường, phía bên kia cuộc đời, phía sau của thực tại hôm nay. Nói khác đi, Thiền sư đặt mình ở điểm nhìn chung cuộc, kết cuộc, đặt mình vào cõi hư vô mà soi nhìn lại đời người và tháng năm quá khứ. Tất cả đời người và sự thịnh suy đều như giọt sương, sẽ tan đi trên đầu ngọn cỏ, tan đi dưới ánh ban mai, tan đi trước thời gian. Trong cuộc đời dài rộng chừng tám mươi năm, con người trải qua biết bao những sự thịnh suy lớn nhỏ khác nhau. Sự thịnh - suy nho nhỏ thì như một lần bốc thăm được cái quạt thanh lý, hai lần thăng lương sớm, ba lần cảm gió, năm lần trượt xổ số lai trăm triệu, một lần mất xe máy... sự thịnh - suy lớn thì như một lần lấy vợ, một lần xây nhà ba tầng, một lần ngoi lên chức phó tổng, một lần đi Pháp, một lần đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua, v.v... Nhưng sự hưng thịnh nào rồi cũng quá, khó khăn nào rồi cũng qua, nỗi buồn nào rồi cũng dứt: Ai nắm tay được suốt ngày, Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời, Bảy mươi chứa quê chở khỏe làm tốt, Cười người hôm trước hôm sau người cười... Nếu biết vậy? Thì chính Thiền sư Vạn Hạnh đã tổng kết, chỉ rõ cái kết cục tất yếu để mỗi con người an nhiên hơn trước mọi sự thịnh suy trong hôm nay để đến ngày mai không bao giờ phải ân hận, tiếc nuối.

Theo Thiền sư Vạn Hạnh, khi còn có tấm thân và được làm một bóng chớp, làm một giọt sương treo trên đầu ngọn cỏ giữa cõi đời này, con người cần phải biết quí từng phút từng giây. Thời gian rồi sẽ qua đi, đối diện với mọi lẽ thịnh suy, con người càng cần biết làm chủ chính mình, đạt đến “nhậm vận”, an nhiên tự tại trước mọi thăng trầm thế sự. Sống một ngày là lãi một ngày. Sống một ngày là thêm niềm vui và hạnh phúc. Có thể đó là thông điệp Thiền sư Vạn Hạnh gửi đến mọi chúng sinh trên cõi đời này...

Sau khi Nguyễn Vạn Hạnh qua đời, vua Lý Thái Tổ cùng các quan dân làm lễ hỏa táng, rồi xây tháp chứa xá lỵ để đèn hương thờ phụng. Về sau này vua Lý Nhân Tông (1066-1127) có làm bài kệ truy tán, trong đó nhấn mạnh tài năng và những đóng góp đặc biệt của ông với việc xác lập triều nhà Lý, dựng xây đế đô Thăng Long: Vạn Hạnh dung tam tế – Chân phù cổ sấm thi – Hương quan danh Cổ Pháp – Trụ tích trấn kinh kỳ (Vạn Hạnh thông ba cõi - Lời sư nghiệm sấm thi - Từ làng quê Cổ pháp - Chống gậy trấn kinh kỳ)...

Theo Doanh nhân Thăng Long - Hà Nội

Nguyễn Hữu Sơn