Tổ "bán báo xa mẹ" có còn mãi với thời gian?
Tin tức - Ngày đăng : 18:41, 20/05/2009
"Xa mẹ" hiện lên từ nghĩa tình
Những năm 80 của thế kỷ trước, khi nửn kinh tế đất nước còn gặp nhiửu khó khăn do chiến tranh liên miên để lại, chưa kịp hồi phục. Ấy cũng là lúc cuộc sống của nhân dân ta bị reo rắc bởi cái đói khổ thường trực. Thủ đô Hà Nội lúc đó được coi là nơi tập chung của người tứ phương tìm vử mưu sinh, kiếm sống.
Đặc biệt là những đứa trẻ bơ vơ cảnh không nhà , không người thân thích, sống một cuộc đời lưu lạc như biến cố chung "đến hẹn lại lên". Những mảnh khép cuộc đời nà y cứ dần hiển hiện rõ nét trước cuộc sống bộn bử mà tấp nập, gấp gáp của thị thà nh Hà Nội. Chúng phải gồng mình già nh giật từng miếng ăn cho lẽ sinh tồn. Từ trộm cắp, cướp giật, hút chính với trẻ em đường phố thường dễ bị biến động vử tâm lý, hà nh vi và rất dễ bị khuất phục. Bao cám dỗ của thị thà nh đã chảy qua cuộc đời các em mà chưa có hồi kết. Để lại bao gánh nặng lớn lao cho xã hội.
Bà Oanh trong một lần đi quy tụ trẻ em đường phố năm 1999 (Ảnh do nhân vật cung cấp)
Thật dễ hiểu tại sao và o năm 1982 tại con phố Quán Sứ (Hà Nội) có một quán cơm nho nhử của vợ chồng ông bà Vũ Tiến - Vũ Thị Ngọc Oanh luôn được sự chà o đón của nhóm trẻ lang thang, cơ nhỡ qua lại khi quán tà n khách. Chúng mải miết nhìn và o người phụ nữ nhân hậu và ừng ực nước miếng nhìn sang các xuất cơm thừa do khách ăn để lại để tìm cái ăn.
"Lúc đó mở quán cơm với mục đích để thêm thắt tiửn nuôi con ăn học. Quán nằm ở vị trí thuận lợi (gần ga Hà ng Cử) và trên trục đường đông đúc nên là nơi dừng chân của nhiửu người tới dùng bữa và là nơi được rất nhiửu trẻ em đường phố để ý. Chúng cứ đi đi lại lại trước cửa nhà mình nên tôi hiểu và day dứt. Vì nghĩ, những đồ ăn thừa khách để lại mà đổ đi thì rất lãng phí và có lỗi với bọn trẻ, vì ít ra với chúng đây cũng có thể là một bữa ăn để qua ngà y. Thế là tôi gọi chúng lại, cho chúng cái ăn. Theo thời gian, trẻ truyửn tai nhau kéo đến quán ngà y một đông hơn. Hai vợ chồng lúc đó rất vui cứ như đã gỡ bử được trách nhiệm của bản thân để có thể chia sẻ phần nà o nỗi bất hạnh, thiệt thòi cùng bọn trẻ". - bà Oanh nhớ lại.
Có lẽ bà định nói với chúng tôi một điửu gì đó rất bí mật và thật thân thiết, gần gũi liên quan đến những đứa trẻ kia, nhưng bà chỉ nói ngập ngừng, đứt quãng: "Cũng vì đó tôi đã dà nh tình thương yêu cho..." và lái chúng tôi sang một chuyện khác.
Nhưng quán bán hà ng cơm của ông bà Tiến - Oanh trở nên nhử bé khi trẻ đến ngà y một đông mà việc cho chúng ăn là việc là m chỉ mang tính tình thế, không ổn định. Trước tình thương yêu bọn trẻ như chân với tay, ông Vũ Tiến suy nghĩ: "Mình phải tìm cách giúp chúng chứ cứ trông chử và o đồ ăn thừa của khách để lại rất thất thường, không lâu dà i được. Nên tôi đã bà n bạc với bà ấy phải cho chúng một việc nà o đó để chúng tự kiếm sống. Qua bà n ra tính và o, mấy hôm sau vợ chồng tôi gọi bọn trẻ tới cho biết ý định của vợ chồng sẽ giúp các cháu. Và ý định đó được sự hưởng ứng, quyết tâm cao từ bọn trẻ" - ông Vũ Tiến tâm sự.
Một buổi học tại lớp học Nhân ái
Vậy là ngay sau đó Tổ bán báo xa mẹ do ông Tiến chủ xướng chính thức ra đời và hoạt động rất hiệu quả. Mọi vốn liếng do vợ chồng ông Tiến bử ra mua báo vử giao cho từng em và o các con phố của Hà Nội bán. Tất cả tiửn bán báo sau mỗi buổi được chuyển trả lại và o "tà i khoản" của tổ để tái sản xuất và phục vụ cho sinh hoạt hà ng ngà y của bản thân chúng. Lòng nhân ái của vợ chồng ông bà Vũ Tiến - Vũ Thị Ngọc Oanh đã tiếp sức cho trẻ em đường phố có một cuộc sống ổn định và ấm cúng thân mật hơn. à”ng bà như những người cha, người mẹ được những trẻ em lang thang, cơ nhỡ từ khắp nơi tụ hội vử, tìm đến như một cơ may, duyên phận.
Do biến cố lịch sử Tổ bán báo xa mẹ hoạt động đến năm 1996 thì ngừng. Cùng với thời điểm nà y, ông Tiến vử mở dịch vụ phục vụ ăn uống, giải khát tại quán Hoa Phượng của gia đình ở 13 Ngô Văn Sở (Hoà n Kiếm - Hà Nội) để giúp các em có việc là m thêm, trên cơ sở tự nguyện. Còn bà Oanh vẫn tiếp tục dạy học ở trường cấp 2 xã Ngọc Thuửµ (Gia Lâm - Hà Nội) tới khi vử hưu.
Lớp học Nhân ái kết nối những mảnh ghép
Nay Tổ bán báo xa mẹ chỉ còn trong hoà i niệm nhưng với những người đã sống trong mái nhà "Xa mẹ" không khửi bồi hồi, xúc động trước tấm lòng nhân ái của vợ chồng ông bà Vũ Tiến. Mái ấm Hoa Phượng (Công ty TNHH Du lịch Văn hoá Giáo dục Hoa Phượng) nằm ở 13 Ngô Văn Sở (Hà Nội) do bà Oanh là m giám đốc đã kết nối, sâu chuỗi những trẻ em đường phố lại với nhau một lần nữa. Tuy là công ty chuyên là m tổ chức các tour du lịch, dịch vụ ăn uống nhưng tất cả tiửn lãi được đem đi là m việc nghĩa. Lớp học "Nhân ái" được dựng lên đã sáng ánh thêm một lần nữa trong lòng trẻ em đường phố. Và không ai khác chính ông Vũ Tiến là m chủ nhiệm lớp học nà y còn việc dạy học do bà Oanh đảm nhiệm.
Nhớ hồi trước kia, cô giáo Oanh lóc cóc một mình ra tận bãi giữa sông Hồng, các xóm ven sông ở Phúc Xá, Phúc Tân... dựng lán, thuê nhà mở lớp học xoá mù chữ cho trẻ em thất học ở đây. Sau khi đã nghỉ hưu, cô đã đầu tư nhiửu công sức, trí tuệ cùng chồng chăm lo dạy dỗ các em, nhất là từ khi chương trình Xa mẹ "toạ lạc ở 13 phố Ngô Văn Sở.
Cô giáo Oanh đang hướng dẫn em Hà học
Nay thì cứ và o thứ hai, tư, sáu của tuần, chiếc xe ô tô du lịch 16 chỗ của công ty Hoa Phượng lại tới chân cầu Long Biên đón 20 em tới lớp học Nhân ái ở 13 Ngô Văn Sở để bổ trợ văn hoá, rồi cuối buổi lại đưa vử. Hơn chục năm qua bà Oanh luôn đứng lớp, dạy dỗ hao lớp các em biết đọc, biết viết, biết là m những phép tính đơn giản.
"Phần lớn các cháu đến đây hầu như không biết chữ hoặc học hà nh dang dở. Muốn chúng quay trở lại với lớp học không hử dễ, phần vì bử bê quá lâu, phần vì phải đi nhặt rác, đánh già y... kiếm sống không còn thời gian đến lớp. Để các cháu được thuận tiện, chúng tôi phải đưa, đón các cháu đến lớp học lấy cái chữ, biết tính toán mai nà y bớt khổ" - bà Oanh chia sẻ. Đến với lớp học còn có cô Nguyễn Thị Hoà , đồng nghiệp của bà Oanh ở trường Ngọc Thuửµ hà ng chục năm qua vẫn tình nguyện tới lớp học Nhân ái dạy con chữ cho trẻ em đường phố.
Trong căn phòng chừng 25 m2 của lớp học, chúng tôi được tận tai nghe những tiếng bi bô i tử, tận mắt chứng kiến những nhân hà i nhử bé tập tô, tập viết, tập tính dưới sự hướng dẫn chỉ bảo của cô giáo Hoà , cô giáo Oanh. Em Nguyễn Thị Hà đang đánh vần vanh vách: oa... hoa - en... sen - ong... trong - ươn... vườn - ác ... Bác... 'Hoa sen trong vườn Bác có đúng không cô?", Hà ngửng mặt lên hửi cô giáo Oanh. Phía bà n bên, em Hương, Hoà đang chăm chú đưa cây bút nghệch ngoạc trên trang giấy trong sự hoá hức, thơ ngây. Còn với em Nguyễn Văn Hòa thì có ước mơ thật giản dị: "Ước gì em không phải xa gia đình, bố mẹ thôi".
Lớp học Nhân ái do cô Hòa (đứng bục giảng) và cô giáo Oanh đảm nhiệm
Các em đến lớp không chỉ được học chữ mà sau mỗi buổi học các em còn được hỗ trợ một xuất ăn có trị giá 7 đến 8 nghìn đồng. Khi ốm đau sẽ được trợ giúp y tế 24/24h, phát thuốc miễn phí và được tham gia vui chơi giải trí tại phòng đa năng của lớp học.
Hiện nay, có 30 em tuổi từ 5 đến 18 tuổi được nuôi dạy tại cư xá 13 Ngô Văn Sở (có 8 em là người dân tộc thiểu số), các em học từ lớp 1 đến lớp 12 có mức sống 850.000 đồng/ tháng, 10 em đang theo học tại các trường dạy nghử do Hoa Phượng chi trả. Suốt 20 năm qua đã có gần 500 em được vợ chồng ông Tiến nuôi dạy, trong đó, có 300 trưởng thà nh, có nghử nghiệp, lương ổn định. Và ông bà Vũ Tiến mừng vui hơn khi đã có 60 trường hợp đã có mái ấm riêng, hạnh phúc.
Chia tay lớp học, những tiếng bi bô i tử vẫn còn văng vẳng đửu đửu vang lên trong mỗi chúng tôi là sự tha thiết những mong và o tương lai tốt đẹp hơn đối với những con người ở đây, đặc biệt là lũ trẻ. Dẫu biết rằng không có người thân, không có những lời yêu thương của cha mẹ nhìn những niửm vui, hạnh phúc khác các em không khửi chạnh lòng. Vì trong lòng các em hiểu, các em đâu có cha, có mẹ.
Nhưng với tình thương yêu sâu nặng đối với những số phận lang bạt ấy, vợ chồng ông bà Vũ Tiến - Vũ Thị Ngọc Oanh đã khơi dựng trong chúng một ngôi "nhà " như mái ấm thực sự mà hầu như chúng chưa được hưởng trọn vẹn. Niửm hạnh phúc thật lớn lao biết bao, giản dị nhường nà o khi chính bản thân ông Vũ Tiến rõ nhất, mặc dù ông không nói ra. Điửu đó giải thích cho câu nói ngập ngừng của bà Oanh "Cũng vì đó tôi đã dà nh tình thương yêu cho...". Chúng tôi biết và hiểu, ông Tiến cũng xuất phát từ cảnh ngộ tương tự như bọn trẻ.