Cao Bá Quát hy sinh thân mình vì nghĩa lớn

Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 15:40, 22/05/2009

(NHN) Thánh Quát là  tên gọi tôn kính mà  người dân dà nh cho danh nhân văn hóa Cao Bá Quát, một con người được sinh ra và  lớn lên trên vùng đất kinh kử³ Thăng Long “ Hà  Nội.

Cao Bá Quát (1809 - 1855) là  nhà  thơ xuất sắc của Việt Nam thế kỷ 19, con của cụ đồ Giảng, một nhà  nho nghèo ở Phú Thị, Gia Lâm, Hà  Nội. Phú Thị là  vùng thuộc trấn Kinh Bắc thời Lê, từ xưa đã nổi tiếng là  một là ng văn vật ở Bắc Hà . Gia đình Cao Bá Quát vì sinh nhai đã dọn sang ở hẳn bên thà nh Thăng Long, mạn gần hồ Trúc Bạch, phía ngoà i cử­a Bắc thà nh.

Cao Bá Quát cùng người anh song sinh là  Cao Bá Аạt nổi tiếng thông minh, học giửi từ nhử. Thân sinh của hai ông là  Cao Cử­u Chiếu, một nhà  nho hay chữ, có ước vọng khi lớn lên, các con mình sẽ trở thà nh quan đại thần của triửu đình nên lấy tên của hai hiửn sĩ đời Chu cũng là  hai anh em sinh đôi để đặt tên cho hai con.

Ngay từ nhử, Cao Bá Quát đã có giọng văn hùng hồn, ý tứ mạnh mẽ, thể hiện ý chí của người tà i hoa. Chuyện kể khi còn bé, Cao Bá Quát ra tắm ở Hồ Tây. Аúng và o lúc vua Minh Mệnh tuần du ở ngoà i bắc, nhà  vua cũng đến Hồ Tây xem phong cảnh. Аạo ngự đi qua, tà n lọng rợp trời, gươm đao sáng quắc, ai cũng phải tránh xa, riêng Cao Bá Quát cứ tự do vùng vẫy. Lính đến bắt lôi lên bử, cậu cứ trần truồng đến trước mặt vua, tự khai là  học trò, vì trời nực ra tắm mát. Vua nhìn xuống hồ thấy có con cá lớn đang đuổi đà n cá con, liửn đọc một câu đối, bảo nếu đúng là  học trò thì phải đối được, sẽ tha không đánh đòn; vua đọc: Nước trong leo lẻo, cá đớp cá.

Cao Bá Quát hy sinh thân mình vì nghĩa lớn

Bút tích Cao Bá Quát

Cao Bá Quát ứng khẩu đối ngay: Trời nắng chang chang, người trói người

Câu đối rất chuẩn cả vử câu chữ lẫn hoà n cảnh, nhử thế mà  Cao Bá Quát được tha. Năm 1832, ông đi thi Hương, đỗ à nguyên tại trường thi Hà  Nội, sau đó vử kinh đô (Huế) thi Hội, nhưng thi mãi không đỗ (truyửn rằng do các quan chấm thi ghét ông kiêu ngạo và  vì văn của ông không đúng với khuôn phép nên đánh hửng). Năm 1841, nhử sự tiến cử­ của quan tỉnh Bắc Ninh, Cao Bá Quát được và o kinh đô nhậm chức Hà nh tẩu Bộ Lễ. Tuy là m quan, cuộc sống của ông cũng hà n vi, không thay đổi.

Tháng 8/1841, ông được cử­ là m sơ khảo trường thi Thừa Thiên, thấy một số bà i thi hay nhưng phạm húy. à”ng cùng người bạn lấy muội đèn chữa giúp. Việc bị phát giác, đáng lẽ ông bị xử­ chém, nhưng sau được xét lại chỉ bị cách chức, bị tù ba năm. Vử sau nhân có Аà o Tri Phủ đi sứ sang Indonesia, ông được tha và  được cử­ theo phái đoà n phụ tá công việc. Trở vử nước, ông được khôi phục chức cũ, một thời gian rồi bị thải.

Năm 1847, Cao Bá Quát được gọi và o là m việc ở Viện Hà n Lâm, sưu tầm văn thơ. Trong thời gian nà y, ông đã xướng họa nhiửu bà i hay nổi tiếng, đến nỗi vua Tự Аức, một người giửi và  chuộng văn chương phải khen ngợi văn tà i của ông là  Văn như Siêu, Quát vô tiửn Hán. Còn người đương thời thì tôn gọi ông là  Thánh Quát (cùng với Nguyễn Văn Siêu là  Thần Siêu, Thánh Quát). Vì hay châm biếm vua và  triửu đình nên ông bị đẩy khửi kinh đô (1850) ra là m giáo thụ ở Quốc Oai, Sơn Tây, một vùng heo hút, nghèo nà n.

Cao Bá Quát hy sinh thân mình vì nghĩa lớn

Tù binh trong cuộc khởi nghĩa thế kỷ 19

Tại đây, chứng kiến những nỗi cơ cực của nhân dân, thông cảm với sự bất bình của đại chúng, ông đă bí mật kết giao với nhiửu bạn bè, dựng cử khởi nghĩa ở đất Mử¹ Lương (Chương Mử¹ - Hà  Nội) năm 1854. Nghĩa quân lấy danh nghĩa phù Lê, tôn Lê Duy Cự là m minh chủ, Cao Bá Quát là m quốc sư, chống lại triửu đình. Song cuộc khởi nghĩa chỉ kéo dà i được mấy tháng thì bị dập tắt. Cao Bá Quát bị bắn chết giữa lúc ông đang ở trận tiửn. Nhà  Nguyễn đã trả thù, chu di ba họ của ông. Các tác phẩm của ông đửu bị cấm tà ng trữ, thu hồi và  đốt hết.

Tuy nhiên, tác phẩm của Cao Bá Quát vẫn sống mãi trong lòng người. Những cố gắng sưu tầm sau nà y đã thu thập được trên một nghìn bà i thơ, phú bằng chữ Hán và  chữ Nôm của ông. Qua các sáng tác đó, Cao Bá Quát hiện ra là  một nhà  thơ có bản lĩnh, có hoà i bão lớn lao muốn lo cho dân, cho nước.

Thơ viết vử con người và  cảnh sắc Thăng Long “ nơi gắn bó với tuổi thơ của ông có những bà i thật đặc sắc trong đó đặc biệt là  chùm thơ Chơi cảnh Hồ Tây với những câu thơ như: Phơi phới lòng xuân khó chủ trì/Tây Hồ xinh đẹp tựa Tây Thi/Sóng êm cử biếc hồ thêm vẻ/Má phấn lưng ong gái đến thì.

Cao Bá Quát còn để lại cho nửn ca hát Thăng Long chừng mười bà i ca trù mà  những bà i ca trù đó được các nghệ nhân hát nói Hà  Nội rất ưa thích và  qua họ có những bà i hát được lưu truyửn rộng rãi đến công chúng yêu nghệ thuật.

Cao Bá Quát là  một danh nhân văn hóa mà  truyện kể dân gian vử ông đã thà nh cả một kho tà ng giai thoại trên đất Thăng Long, điửu đó chứng tử lòng yêu mến của người dân đối với ông, một nhân vật tà i năng vử văn học và  chính trị của Thăng Long “ Hà  Nội ở nử­a đầu thế kỷ XIX. 

HÆ°á»›ng DÆ°Æ¡ng