Hai kịch bản tăng trưởng và  lạm phát năm 2010

Tin tức - Ngày đăng : 07:43, 31/08/2009

Tại hội thảo Vai trò chính sách tiửn tệ đối với nửn kinh tế Việt Nam sau thời kử³ suy giảm tại Đà  Lạt vừa qua, các nhà  quản lý, chuyên gia đã đưa ra nhiửu nhận định, kịch bản vử chính sách tiửn tệ cho thời kử³ sau suy giảm kinh tế. Xin giới thiệu ý kiến của ông Nguyễn Văn Già u, Thống đốc Ngân hà ng Nhà  nước, vử kịch bản tăng trưởng và  lạm phát năm 2010.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới lâm và o suy thoái, hà ng loạt quốc gia tiến hà nh thực hiện những gói kích cầu nhiửu nghìn tỷ USD.

Một câu hửi được đặt ra, tại sao Chính phủ lựa chọn giải pháp hỗ trợ lãi suất mà  không chọn giải pháp như gói kích thích kinh tế các nước? Và  không chỉ cho doanh nghiệp nhử và  vừa mà  còn hỗ trợ cho cả hộ sản xuất?

Theo lý thuyết kinh tế vĩ mô và  kinh nghiệm kích thích kinh tế của các nước, để chống suy giảm kinh tế, chính sách tà i khoá đóng vai trò cơ bản, còn chính sách tiửn tệ là  hỗ trợ.

Thống đốc Ngân hà ng Nhà  nước Việt Nam Nguyễn Văn Già u.

Tuy nhiên, việc sử­ dụng các gói kích thích kinh tế  ở các nước cũng khác biệt nhau, tuử³ thuộc và o khả năng của ngân sách nhà  nước, tình trạng khủng hoảng tà i chính và  mục tiêu kinh tế vĩ  mô của mỗi nước. Gói kích thích kinh tế của Anh tương ứng 5% GDP, Mử¹ (30%), Trung Quốc (30%), Pháp (14%), Thụy Аiển (1,5%), Nga (16,3%), Thổ Nhĩ Kử³ (3,9%), Ấn Аộ (0,8%), Malaysia (1,2%), Kazăcxtan (14,3%)...

Khi nghiên cứu thực hiện gói kích thích kinh tế 17.000 tỷ đồng, có nhiửu phương án được đặt ra: thứ nhất, hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp nhử và  vừa, cả vốn lưu động và  đầu tư tà i sản cố định.

Thứ hai, sử­ dụng để đầu tư một số dự án kết cấu hạ tầng giao thông quy mô lớn như đường cao tốc, quốc lộ, sân bay, cảng biển.

Thứ ba, xây dựng một số công trình cơ sở hạ tầng, nhà  ở cho công nhân khu công nghiệp, nhà  ở xã hội, các khu ký túc xá sinh viên; nhà  ở cho người nghèo, lập Quử¹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhử và  vừa, cấp bù lãi suất tín dụng đầu tư phát triển nhà  nước và  hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp nhử và  vừa.

Quá trình thảo luận giữa các cơ quan hữu quan cho thấy, nếu sử­ dụng 17.000 tỷ đồng cho quá nhiửu đối tượng sẽ là m phân tán nguồn lực, không tạo nên tính đột phá và  việc giải ngân chậm nguồn vốn kích cầu còn là m xấu hơn tình hình kinh tế - xã hội.

Tại cuộc họp Thường trực Chính phủ ngà y 17/1/2009, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định phương án tối ưu là  sử­ dụng toà n bộ 17.000 tỷ đồng để hỗ trợ lãi suất 4%/năm cho khoản vay ngân hà ng bằng VND của doanh nghiệp, hộ sản xuất (dự kiến lan tửa dư nợ khoảng 630.000 tỷ đồng) bắt đầu thực hiện từ tháng 2/2009, đối với hầu hết các ngà nh, lĩnh vực cơ bản của nửn kinh tế.

Lãi suất tiửn vay sau khi được hỗ trợ còn khoảng từ 4 - 6%/năm, tương đương với lãi suất tiửn vay bằng đồng bản tệ ở nhiửu nước (Thái Lan 7%/năm, Malaysia 6,5%/năm, Mử¹ 6%/năm, Trung Quốc 7%/năm).

Việc thực hiện hỗ trợ lãi suất đã tạo điửu kiện cho hệ thống ngân hà ng thương mại không hạ lãi suất cho vay, kết hợp không hạ thấp tiêu chí cho vay, không tăng lãi suất huy động mà  vẫn tiếp tục huy động vốn từ thị trường để cho vay. Thực tế cho thấy quyết sách của Chính phủ là  đúng đắn.

Tuy nhiên, theo lý thuyết kinh tế vĩ mô, việc thực thi chính sách tiửn tệ nới lửng để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, nếu sử­ dụng dà i hạn thì không là m tăng trưởng kinh tế mà  tác động là m tăng lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế lớn hơn sản lượng tiửm năng, nói cách khác lớn hơn mức tăng sản lượng mà  nửn kinh tế sử­ dụng tối đa các nguồn lực, sẽ dẫn đến lạm phát cao, ngược lại thì lạm phát thấp.

Bảy tháng đầu năm 2009, kinh tế nước ta dần lấy lại được đà  tăng trưởng khi 6 tháng GDP tăng 3,9%, tháng 7, sản xuất nông nghiệp - công nghiệp và  dịch vụ tiếp tục gia tăng, lạm phát là  3,22%.

Trong những tháng cuối năm, mặc dù gặp nhiửu khó  khăn, thách thức, nhưng sản xuất - kinh doanh có chiửu hướng thuận lợi hơn, nhưng lạm phát có xu hướng tăng do tác động của chính sách tà i khoá, tiửn tệ nới lửng, Nhà  nước điửu chỉnh tăng lương và  giá một số vật tư đầu và o.  

Giá lương thực, xăng dầu và  nguyên liệu cơ bản có thể tăng do tác động của giá cả thị trường thế giới. Dự báo cả năm 2009 tăng trưởng kinh tế khoảng 5%, lạm phát khoảng 6 - 8%.

Bởi vậy, Ngân hà ng Nhà  nước dự báo rằng, trong năm 2010, tăng trưởng và  lạm phát sẽ diễn ra theo một số kịch bản sau:

Kịch bản 1: Tốc độ tăng của tín dụng và  tổng phương tiện thanh toán năm 2009 khoảng 30%, năm 2010 khoảng 25 - 27%. Hiệu quả đầu tư giảm nhẹ so với năm 2008, ICOR đạt khoảng 7,7 năm 2009 - 2010 do đầu tư mở rộng theo chính sách kích cầu.

Giá dầu thế giới tăng trở lại và  đạt mức bình quân 64 USD/thùng năm 2009 và  70 USD - 75 USD/thùng năm 2010. Giá gạo thế giới có xu hướng tăng và  đạt mức bình quân 570 USD/tấn năm 2009 và  750 USD/tấn và o năm 2010 (gạo 5% tấm của Thái Lan).

Kết quả dự báo bằng mô hình kinh tế  lượng và  phân tích nhân tố ảnh hưởng, năm 2010, tăng trưởng kinh tế khoảng 6 - 6,5%, lạm phát khoảng từ 10%.

Kịch bản 2: Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và  tín dụng năm 2009 khoảng 25 - 27%, năm 2010 khoảng 23 - 25%. Hiệu quả đầu tư tương ứng năm 2008, ICOR đạt khoảng 7 - 7,5.  

Giá dầu thế giới bình quân 60USD/thùng năm 2009, 70 - 75USD/thùng năm 2010 (theo dự báo của IMF ngà y 8/7/2009). Giá gạo thế giới có xu hướng tăng và  đạt mức bình quân 565 USD/tấn năm 2009, 600 USD/tấn năm 2010.  

Kết quả dự  báo theo mô hình kinh tế lượng và  phân tích nhân tố ảnh hưởng, năm 2010, tăng trưởng kinh tế  khoảng 6,2% - 7%, lạm phát khoảng 7,5 - 8,5%.

Theo đó, năm 2009 - 2010 đà  tăng trưởng kinh tế được duy trì, nhưng lạm phát có sức ép tăng; việc hoạch định và  điửu hà nh chính sách tiửn tệ sẽ phải áp dụng đồng bộ nhiửu giải pháp tổng thể.  

Cụ thể, tiếp tục áp dụng mô hình kiểm soát khối lượng tiửn là  chủ yếu (quy mô và  tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và  tín dụng), kết hợp với kiểm soát giá cả tiửn tệ (lãi suất và  tỷ giá).  

Tiếp theo, điửu hà nh các công cụ chính sách tiửn tệ một cách chủ động, linh hoạt và  thận trọng nhằm kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng và  tổng phương tiện thanh toán khoảng 30% và  giảm dần trong những năm tiếp theo, đi đôi với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng; lãi suất và  tỷ giá ở mức hợp lý, đảm bảo an toà n hệ thống.  

Cùng đó, sử­ dụng các ngân hà ng thương mại có quy mô lớn đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các giải pháp điửu hà nh chính sách tiửn tệ, phù hợp với yêu cầu phát triển.

VnEconomy