Ước mơ bình dị của chị Nguyệt vớt xác

Media - Ngày đăng : 08:56, 16/10/2009

"Nhiửu người nói với tui, sao mỗi lần vớt được tử­ thi không đòi gia chủ thù lao, để có tiửn mà  nuôi con. Tui nghe mà  tủi thân, người ta mất người thân đã đau khổ, mình lấy đó mà  vòi vĩnh thì có phải đạo", chị Nguyệt "vớt xác" thút thít.

Nhà  nghèo, chị Nguyệt dù tần tảo cũng không nuôi nổi con trai ăn học đến nơi đến chốn dù cậu bé học giửi. 48 tuổi đời, hơn 30 tuổi nghử vớt xác người trên sông Lam, đó là  những gì mà  người ta tóm lược được khi nói vử chị Nguyễn Thị Nguyệt trú ở tổ 1, thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, Hà  Tĩnh. "Nhiửu khi bưng bát cơm định ăn, người ta lại gọi mình đi vớt xác. Cái nghử là m phúc là m đức chứ ai lấy nó là m cái nghiệp kiếm miếng ăn mô", chị tâm sự. Vậy mà  chẳng biết từ bao giử, nghử vớt tử­ thi trôi sông đã gắn với chị. Cái tên Nguyệt "vớt xác" cũng gắn với chị như một cái duyên khó dứt.

Vớt xác không công

Cứ mỗi lần gặp xác chết trôi sông, người ta lại í ới nhau gọi Nguyệt "vớt xác", chị lại có mặt nhanh như đội cứu hộ, trong tay luôn sẵn sà ng lườ¡i câu, dây thừng. Xác người nổi lửnh phửnh trên mặt nước, nhìn thấy đã sợ chứ đừng nói đến chuyện vớt. Vậy mà  chỉ với và i thao tác đơn giản, chị Nguyệt đã đưa và o bử biết bao con người xấu số mà  đến nay chị cũng không nhớ mình đã vớt được bao nhiêu người.

Số phận run rủi đưa chị và o nghử từ tuổi 18. "Một hôm có anh bộ đội không may bị lật thuyửn thúng khi ngang sông Lam. Mọi người dáo dác tìm xác nhưng chẳng ai dám lặn tìm. Khi đó, tui đang là  con gái độ xuân chẳng biết sợ là  chi, liửn lao xuống dòng nước lặn tìm, mãi rồi cũng thấy anh" - chị Nguyệt nhớ lại.

Từ đó, khúc sông Lam chạy qua Nghi Xuân, Xuân Thà nh (Hà  Tĩnh), Bến Thủy, Cử­a Lò (Nghệ An) biết chị với khả năng tìm vớt xác người chết đuối. Hễ có người mất tích trên sông lâu ngà y người ta lại tìm chị, có tử­ thi thối rữa ai cũng ngại tiếp xúc thì Nguyệt "vớt xác" lại ra tay, đưa cả cái xác trương phình giao lại cho gia chủ.

Gọi là  nghử nhưng chưa bao giử chị lấy đó là m "cần câu cơm", chị chỉ xem đó là  việc phúc đức nên là m. Nhiửu lần vớt được những em học sinh, những đôi trai gái yêu nhau chết trong tư thế quyện chặt nhau, chị đã không giấu được nước mắt.

"Mỗi lần gặp cảnh như rứa, lòng tui đau như thắt anh ạ. Cứ như ruột rà  mình rứa. Có gia đình sau khi vớt xác xong, họ cho mình ít tiửn gọi là  công cán, là m cái nghử bất đắc dĩ ni hơn 30 năm tui chưa bao giử đòi tiửn công dù chỉ một đồng", chị xúc động. Chị kể tiếp: "Nhiửu khi gặp người chết nổi trên sông, tui vớt vử khâm liệm đà ng hoà ng rồi chử gia chủ tới nhận".

Nói chị Nguyệt "vác tù và  hà ng tổng" cũng đúng khi chị là m cái việc không công cho thiên hạ ngót nghét nử­a đời người. Nhiửu người cho chị "dở hơi" cũng chẳng sai khi ngư nghiệp kiêng cữ việc "cướp cơm" của hà  bá như vậy. Nhưng chị tâm niệm, "nghử ni không phải ai là m cũng được, tui đã sống với những cái xác trôi sông suốt mấy chục năm âu cũng là  duyên trời định, là  phúc là  đức cho đời".

Hằng ngà y chị cùng mấy người em trai quăng lưới, đánh cá, ngư nghiệp chính là  công việc mưu sinh của chị. Nhưng cứ nghe có người gọi đi vớt xác là  chị lại bử vó, buông lưới đi tìm giúp cho người ta đã.

Mong ước bình dị

Cả một đời vớt xác là m phúc, đến nay khi ở cái tuổi "xế chiửu", chị vẫn sống trong căn nhà  cấp 4 xập xệ nằm sát mé sông Lam. 

Sinh ra trong một gia đình vốn nghiệp sông nước, chị Nguyệt mất mẹ từ tuổi nhử. Аến tuổi trưởng thà nh, lại lỡ bước với một tay "Sở Khanh", một mình chị nuôi con trai đã khó, cà ng nặng vai khi cáng đáng thêm người em trai tà n tật.

"Mình vớt được xác đem lên cho người ta, mình nói mấy tiửn mà  người ta chẳng đưa. Nhưng ngử­a tay lấy tiửn của thân nhân người xấu số tui không đà nh lòng". Sống mãi với tâm niệm phúc đức đó nên chị nghèo vẫn hoà n nghèo.

Suốt đời gắn bó với nghử vớt xác, chị Nguyệt luôn tin mình sẽ được hưởng phúc đức

Hằng ngà y chị Nguyệt vẫn cùng những người em trai của mình lặn lội mò tôm, bắt ốc trang trải cuộc sống. Học phí của cháu Nguyễn Văn Аạt, con trai của chị phụ thuộc và o khoản tiửn của mẹ. Sức của chị yếu đi cũng là  lúc em Аạt phải rời xa trường lớp dù kết quả học tập của em luôn đạt thà nh tích tốt.

Аiửu là m chị Nguyệt đau khổ nhất chính là  không nuôi nổi con ăn học đến nơi đến chốn. "Nó học giửi lắm, nhưng tui nghèo một mình tui không nuôi nổi nó" chị nghẹn ngà o. Những lúc thời tiết thuận lợi gia đình còn có đồng ra đồng và o, còn lúc mưa gió bão bùng, dòng Lam dữ dội, cả nhà  lại rơi và o cảnh túng thiếu.

"Nhiửu người nói với tui, sao mỗi lần vớt được tử­ thi không đòi gia chủ nhiửu thù lao và o, để có tiửn mà  nuôi thằng Аạt. Tui nghe mà  tủi thân, chao ôi, người ta mất người thân đã đau khổ, mình lấy đó mà  vòi vĩnh thì có phải đạo", chị Nguyệt thút thít.

Аã có lần chị bị bọn lưu manh đánh vì chúng cho rằng chị đã "già nh cơm" của chúng. Nếu như kiếm tiửn trên những xác chết trôi sông thì mỗi lần vớt như vậy không dưới và i triệu. Nhưng với chị Nguyệt, công việc chị là m xuất phát từ tấm lòng không dễ ai cũng có.

Nói ước mong của mình: "Bộ câu xác người và  cả bộ dây thừng, tui mong sẽ không còn dùng đến nữa", chị Nguyệt chỉ mong được "giải nghệ" cái nghử nhiửu đau khổ nà y để không còn chứng kiến nhiửu cái chết thương tâm.

Trời chiửu, hai mẹ con chị Nguyệt chất đống lưới lên thuyửn, bắt đầu một buổi tìm kiếm từng con cá, mò từng con tôm. Аi được một quãng, chị chợt giật mình khi nghe ai đó gọi giật giọng: "Cô Nguyệt "vớt xác" ơi".

Công An Nhân Dân