Thà nh cổ Hà Nội “ Xứng tầm Di sản Văn hóa thế giới
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 15:25, 08/02/2010
Sau khi lên ngôi sáng lập triửu Lý, năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra thà nh Đại La và đổi tên là Thăng Long. Sau khi chọn Thăng Long là m nơi định đô, các vua nhà Lý và sau đó là nhà Trần, nhà Lê đã cho xây dựng hệ thống thà nh luử¹ tại đây.
Ngoà i những di tích trên mặt đất là Kử³ Đà i, Đoan Môn, nửn Điện Kính Thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn, nhà - hầm D67 và tường bao cùng 8 cổng hà nh cung, năm 2002 cuộc khai quật khảo cổ do Viện Khảo cổ tiến hà nh tại 18 Hoà ng Diệu đã phát lộ một quần thể bao gồm nhiửu loại hình di tích kiến trúc dưới lòng đất. Những hiện vật được khai quật đã chứng minh rằng, Thăng Long “ Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Việt Nam trong suốt mười thế kỷ.
Kử³ Đà i còn gọi là Cột Cử, là dấu tích còn lại của thà nh Hà Nội thời Nguyễn, được xây dựng năm 1805-1812 trên vị trí của Tam Môn, cổng phía ngoà i của Cấm thà nh thời Lê (thế kỷ 15-17). Kử³ Đà i cao hơn 40m gồm thân trụ hình bát giác, lầu nóc để dựng cột cử, xây trên bệ tam cấp đồ sộ.
Đoan Môn là cổng chính phía Nam để và o bên trong Cấm thà nh. Đoan Môn có niên đại thời Lê (thế kỷ 15), được xây bằng đá và gạch vồ, có chiửu cao là 6m. Cổng có 5 cửa vòm, cửa chính giữa có gắn một phiến đá khắc chữ Đoan Môn. Dưới lòng đất Đoan Môn, cuộc khai quật khảo cổ học năm 1999 đã tìm thấy dấu tích đường viửn đá lát chân tường và sân gạch từ thời Lê, dấu tích con đường lát gạch hình hoa chanh thời Trần và nửn gạch thời Lý ở lớp dưới cùng.
Điện Kính Thiên được xây dựng năm 1428 trên vị trí của điện Cà n Nguyên, Thiên An thời Lý - Trần (thế kỷ 11-14). Hiện nay chỉ còn nửn cũ và hai thửm rồng đá.
Thửm rồng phía trước điện được xây năm 1467, có 9 bậc bằng đá. Thửm chia thà nh 3 lối lên xuống đửu nhau bằng đôi lan can đá chạm rồng. Lối chính giữa dà nh cho vua đi, hai bên dà nh cho quần thần.
Thửm rồng phía sau nửn điện được tạo tác khoảng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18 với quy mô nhử hơn so với thửm rồng phía trước, chỉ có một lối lên xuống với 7 bậc.
Nhà và hầm D67 ở phía Bắc của nửn điện Kính Thiên, là trung tâm Sở chỉ huy của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kử³ chiến tranh 1954-1975, trong đó có phòng là m việc và phòng nghỉ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng nổi tiếng nhất trong hà ng ngũ tướng lĩnh của Việt Nam. Đây cũng là nơi diễn ra một số cuộc họp của lãnh đạo quân sự cao nhất đưa ra các quyết sách vử chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Hậu Lâu còn gọi là Tĩnh Bắc Lâu, Lầu Công chúa hay Pagode des Dames (Chùa Các bà ), là công trình được xây dựng muộn hơn (1821) so với các di tích nằm trên trục trung tâm của Thà nh Hà Nội. Ban đầu được sử dụng và o mục đích tôn giáo (thử Phật). Cuối thế kỷ 19 Hậu Lâu bị hư hửng nặng, người Pháp đã cải tạo xây dựng lại như hiện nay.
Tại đây, năm 1998, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy các hiện vật có niên đại từ thế kỷ 9 đến đầu thế kỷ 20. Tại độ sâu 3,2m đã tìm thấy dấu tích bến nước thời Lê sơ được xây dựng bằng gạch và đá chân tảng hoa sen từng được dùng để đỡ các cột gỗ thời Lý, Trần và rất nhiửu đồ gốm sứ trắng mửng - đồ ngự dụng - thời Lê sơ.
Bắc Môn là cổng thà nh phía Bắc, một trong 5 cổng thà nh duy nhất còn lại của thà nh Hà Nội thời Nguyễn, xây dựng năm 1805.
Cổng thà nh được xây bằng gạch với vòm bằng đá, giữa cửa có tấm biển đá ghi 3 chữ Hán Chính Bắc Môn, diửm biển trang trí hoa dây. Trên cổng thà nh hiện nay thử hai vị Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Hoà ng Diệu đã tuẫn tiết theo thà nh Hà Nội.
Năm 1999 cũng tại đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện các phần còn lại của một bức tường xây bằng đá và gạch vồ, nửn móng dà y 1,2m và dấu tích của một kiến trúc khác thời Lê tại độ sâu từ 1,66m - 2,20m.
Năm 1805, khi xây thà nh Hà Nội theo kiểu Vauban, nhà Nguyễn đã xây tường bao từ cửa Đoan Môn quanh nội điện là m Hà nh cung để vua là m việc và nghỉ ngơi mỗi khi Bắc tuần. Hiện nay, trong Thà nh cổ còn 8 cổng và các cổng nà y đã được nhà nước bảo hộ Pháp liệt hạng năm 1925.
Chính khuôn viên nà y từ năm 1954 - 2004 là vị trí cơ quan đầu não chiến lược, khu A sở chỉ huy Bộ Quốc phòng.
Năm 2002-2003, một cuộc khai quật khảo cổ học lớn được tiến hà nh tại 18 Hoà ng Diệu đã xuất lộ một quần thể di tích vô cùng quý giá, minh chứng cho sự hiện hữu và trường tồn của Thăng Long Hà Nội qua hà ng ngà n năm lịch sử. Tại đây đã phát hiện được rất nhiửu loại hình di tích kiến trúc và di vật có niên đại cách nay 1.300 năm, bắt đầu từ thời Đại La (thế kỷ 7-9) qua các thời Đinh - tiửn Lê (thế kỷ 10), thời Lý (1009 - 1225), Trần (1226-1400), Lê sơ (1428-1527), Mạc (1527-1592), Lê Trung Hưng (1592-1789) và Nguyễn (1802-1945).
Trên thế giới rất hiếm có Thủ đô một nước mà trong lòng đất còn bảo tồn được một quần thể di tích, di vật mang bử dà y lịch sử - văn hoá lâu dà i và có các tầng văn hoá chồng xếp, nối tiếp nhau một cách khá liên tục như thế. Tổng Giám đốc UNESCO, ông Koichiro Matsura, khi đến tham quan khu di tích tháng 7/2005 đã đánh giá rằng: Đây là khu di tích độc đáo, có tầm quan trọng đặc biệt không chỉ đối với Việt Nam mà cả thế giới.
Hiện, hồ sơ lý lịch Khu Di tích Trung tâm Hoà ng thà nh Thăng Long “ Hà Nội đã được hoà n thiện trình UNESCO công nhận là Di sản thế giới. à”ng Nguyễn Thanh Sơn - Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, kiêm giữ chức Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia UNESCO Việt Nam, thà nh viên hội đồng UNESCO thế giới cho biết dự kiến tháng 10/2010, UNESCO sẽ có quyết định công nhận Khu Di tích Hoà ng thà nh Thăng Long “ Hà Nội là Di sản thế giới, đúng và o dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long “ Hà Nội.