Những lưu ý khi sử­ dụng thuốc đặt âm đạo

Danh thắng & Di tích Hà Nội - Ngày đăng : 12:32, 22/04/2010

(NHN) Аối với các thuốc dùng đặt trong âm đạo, người dùng cần dùng đúng chỉ định, đúng cách. Nếu không sẽ không đạt hiệu quả mà  còn gây hại...

Các loại và  dạng thuốc đặt

Thuốc đặt âm đạo gồm các chất kháng các tác nhân gây bệnh,  hay các chất là m thay đổi môi trường âm đạo nhằm trị các bệnh viêm nhiễm đường sinh dục:

- Loại chứa hormon estrogen là m cho niêm mạc âm đạo phát triển để có độ dà y,  độ mửm mại cần thiết và  tiết ra dịch âm đạo, là m cho giao hợp có hứng thú, không đau. Estrogen còn tạo ra lượng glycogen dồi dà o, là m cho vi khuẩn lactobacillus phát triển, tiết ra acid lactic giữ cho môi trường âm đạo có tính acid (pH=3,5-4,5). Trong môi trường đó vi khuẩn có lợi phát triển, vi khuẩn có hại bị hạn chế. Người mãn kinh, lượng estrogen giảm sút, gây trở ngại cho sinh hoạt tình dục, là m cho các tác nhân gây bệnh dễ thâm nhập phát triển. Thuốc đặt chứa  estrogen nhằm chống lại các biểu hiện nà y.

- Loại chứa một kháng sinh dùng để đặc trị một tác nhân gây bệnh cụ thể. Ví dụ, thuốc trứng chứa metronidazol 500mg đặc trị trùng roi, viên đặt chứa  clotrimazol đặc trị nấm Candida...

- Loại chứa nhiửu kháng sinh để kháng cùng  lúc nhiửu tác nhân gây bệnh. Ví dụ, tergynan chứa ternidazol (trị trùng roi), nystatin (diệt nấm), neomycin (kháng khuẩn); flagystatine chứa metronidazol (trị trùng roi),  nystatin (trị nấm); neo penotrean chứa miconazol (trị nấm), metronidazol (trị trùng roi)...

Yêu cầu của thuốc đặt âm đạo là  hoạt chất tan ra được, tác dụng tại chỗ, lý tưởng nhất là  giữ được môi trường âm đạo trong khoảng pH=3,5-4,5. Các dạng thuốc đặt gồm: viên trứng; viên nhét có que nhét, chuyên đặt âm đạo; viên nén có loại chuyên đặt âm đạo như tergynan, nhưng một số có dùng đặt âm đạo nhưng chỉ là  loại viên uống thông thường như viên chlorocid,  metronidazol...

Những lưu ý khi sử­ dụng thuốc đặt âm đạo

Thuốc trứng - một dạng thuốc để đặt âm đạo.

Dùng thế nà o cho an toà n  và  hiệu quả?

Viêm âm đạo thường do một tác nhân chính gây ra. Mỗi tác nhân gây ra  các triệu chứng điển hình  có thể nhận biết qua khám, cấy dịch tiết âm đạo, soi tươi xác định sự có mặt tác nhân đó. Аa phần là  soi tươi, dễ là m và  ít tốn kém. Hầu hết tại cơ sở y tế từ tuyến huyện trở lên đửu là m được, khi cần thiết mới dùng kử¹ thuật xét nghiệm khó, đắt tiửn ở tuyến cao. Ví dụ, người nhiễm trùng roi (trichomonas vaginalis) có khí hư mà u và ng, loãng, có mùi hôi, nếu có bội nhiễm thì ngả sang mà u xanh, bị rát bửng nhất là  khi giao hợp, khi lau sạch khí hư thấy âm  đạo, cổ tử­ cung có những chấm đử không đửu, bôi lên dung dịch lugol (iod) sẽ thấy bắt mà u rất rõ. Tuy nhiên những dấu hiệu trên chưa đặc hiệu. Cần là m thêm xét nghiệm giúp cho chẩn đoán như soi tươi, cấy dịch tiết âm đạo cho kết quả chính xác 60-70%. Khi cần, mới dùng các kử¹ thuật thăm dò AND, tìm kháng thể đơn dòng có độ chính xác đến 99,8% nhưng khó, ít có cơ sở là m được.  Sau khi có kết quả khám xét nghiệm ở tuyến dưới có độ chính xác tương đối (60-70% như trên) có thể chọn khởi đầu thuốc trứng metronidazol. 

Khi không có điửu kiện khám, xét nghiệm phân biệt, trước đây được coi là  viêm âm đạo "không điển hình" dùng các biệt dược có nhiửu kháng sinh (kháng nấm + kháng khuẩn). Có người còn dùng viên đặt "đa năng" với quan niệm là  "bắn một mũi tên trúng nhiửu đích". Tuy nhiên, ngà y nay nhiửu thầy thuốc khuyên không nên lạm dụng loại thuốc nà y vì dễ gây nên tình trạng kháng thuốc.

Cần dùng đủ liửu, trong khoảng 7-10 ngà y, không nên dùng quá 14 ngà y. Khi đã dùng đúng thuốc mà  không đáp ứng thì có thể thay thuốc. Không nên dùng tùy tiện (kéo dà i hoặc không đủ liệu trình điửu trị) vì dễ sinh kháng thuốc.

Khi bệnh nặng, nếu dùng thuốc đặt không hiệu quả, có thể kết hợp thêm thuốc uống. Ví dụ, bị viêm âm đạo do Candida khởi đầu dùng thuốc bôi, thuốc đặt  clotrimazol, khi cần mới dùng kết hợp với thuốc phổ rộng, mạnh hơn là  fluconazol.

Viêm âm  đạo có khi tái đi tái lại (do nhiễm lại từ bên ngoà i, do tự nhiễm từ chính mình). Lần đầu tiên nên chọn một thuốc đặc hiệu, có tác dụng vừa phải, rẻ tiửn; chỉ khi  không đáp ứng mới dùng một thuốc đặc hiệu khác mạnh hơn, đắt tiửn hơn. Ví dụ nhiễm trùng roi, khởi đầu đặt metronidazol, nếu không đáp ứng có thể chuyển sang đặt ternidazol.

Với loại thuốc viên: Trước tiên cần là m ẩm (nhưng không nhũn hay rã) bằng cách nhúng viên và o nước 20-30 giây hay đặt viên thuốc lên một miếng gạc sạch đã là m ẩm. Sau đó, đặt viên thuốc và o âm đạo. Cần chú trọng kử¹ thuật đặt: nên đặt và o buổi tối trước khi đi ngủ. Nếu không đặt và o buổi tối thì sau khi đặt phải nằm nghỉ và i giử (khá bất tiện). Cách đặt: rử­a sạch tay, kẹp viên thuốc giữa hai ngón tay đưa và o âm đạo. Dùng ngón tay đẩy thuốc và o bên trong. Khi đặt cần ở tư thế nử­a nằm nử­a ngồi, ngồi xổm hay đứng gác một chân lên ghế thấp. Người trẻ tuổi chưa từng tự đặt bao giử nên nhử thầy thuốc hay một người khác quen đặt hướng dẫn. Tránh giao hợp trong thời gian dùng thuốc nhằm là m cho thuốc có hiệu quả và  tránh sự lây nhiễm từ người mình giao hợp.

Trong quá trình đặt thuốc nếu xảy ra dị ứng nên trao đổi cụ thể với thầy thuốc để có hướng xử­ trí phù hợp. Một và i trường hợp nhất thiết không nên lạm dụng thuốc đặt kháng sinh như trường hợp huyết trắng sinh lý, trường hợp viêm âm đạo không đặc hiệu (do các chất kích thích mà  không do nhiễm khuẩn). Lạm dụng không chỉ gây nên sự kháng thuốc mà  còn có thể là m mất cân bằng sinh thái hệ vi sinh, gây bội nhiễm các tác nhân gây bệnh khác.

SK&ĐS