Những tòa thà nh trên đất Hà  Nội thời Bắc thuộc

Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 09:00, 27/04/2010

(NHN) Từ thời Lý, Thăng Long trở thà nh "nơi thượng đô của Kinh sư muôn đời". Nhưng từ trước đó, Thăng Long - Hà  Nội đã đảm trách vai trò một trung tâm chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa...

Аịa thế trời cho Rồng cuộn hổ ngồi của miửn đất Hà  Nội đã khiến Hà  Nội  đảm trách vai trò một trung tâm chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa từ rất lâu đời và  giữ vị trí Thủ đô của đất nước trong thời gian dà i nhất của lịch sử­ nước ta.

Những tòa thà nh trên đất Hà  Nội thời Bắc thuộc

Một góc thà nh cổ Hà  Nội ngà y nay.

Thư tịch chép rằng từ Thế kỷ  VII đến Thế kỷ X ở Hà  Nội luôn có việc đắp lũy xây thà nh nghĩa là  Hà  Nội luôn được chọn để đặt trị sở cai trị. Cứ theo Аại Việt sử­ ký toà n thư (NXB Khoa học xã hội, HN.1972) thì có những thà nh sau:

Mậu Dần (618), Thái thú Giao Châu là  Khâu Hòa đắp thà nh nhử bên trong vòng quanh 900 bước để chống giữ quân Trường Châu.

Cứ theo quy định mỗi bộ là  6 thước, mỗi thước là  31 cm thì thà nh nhử nà y có chu vi là  1.674 m.

Năm Аinh Mùi (767) quân Côn Lôn và  Chà  Và  đến đánh Châu Thà nh. Kinh lược sứ là  Trương Bá Nghi cầu cứu với Аô úy Châu Vũ Аịnh là  Cao Chính Bình đánh tan quân Côn Lôn và  Chà  Và  ở Chu Diên.

Trương Bá Nghi đắp lại La Thà nh.

Năm Tân Mùi (791), Triệu Xương nhà  Đường sang là m Аô hộ. Xương đắp  thêm La Thà nh cho kiên cố hơn.

Năm Quý Mùi (803), đô đốc Bùi Thái sai san phẳng Câu địa thà nh ở trong thà nh, hợp là m một thà nh.

Năm Mậu Tý (808), Trương Chu là m đô hộ Giao Châu đắp thêm thà nh Аại La, đóng 300 chiếc thuyửn dà i, mỗi chiếc thuyửn có 25 người chiến thủ, 23 người tay chèo, thuyửn chèo ngược xuôi, đi nhanh như gió.

Năm 824, Lý Nguyên Gia thấy trước cử­a thà nh có nước chảy ngược, sợ trong châu nhiửu người sinh lòng là m phản, vì thế dời đóng ở thà nh ngà y nay. (Bấy giử Nguyên Gia dời phủ trị đến Sông  Tô Lịch, mới đắp thà nh nhử thôi, có người thà y xem đất bảo rằng: sức ông không đắp nổi thà nh lớn, độ 50 năm nữa vử sau tất có người họ Cao đến đây đóng đô dựng phủ. Аến đời Hà m Trung, Cao Biửn đắp La Thà nh đúng như lời ấy. Lại xét phủ thà nh đô hộ trước đó ở ngoà i Thà nh Аông Quan ngà y nay, gọi là  La thà nh, sau Cao Biửn đắp Kim Thà nh, thà nh bên ngoà i cũng gọi là  La Thà nh.)

Năm Mậu Dần (858), Vương Thức là m Kinh lược Giao Châu. Thức là  người có tà i lược, đến phủ sai trồng cây táo là m hà ng rà o, bên ngoà i đà o hà o sâu để thoát nước trong thà nh, bên ngoà i hà o trồng tre gai, giặc không thể xâm phạm được.

Năm Bính Tuất (866), Cao Biửn giữ phủ xưng Vương đắp La Thà nh vòng quanh là  1982 trượng lẻ 5 thước, thân thà nh cao 2 trượng 6 thước, chân thà nh rộng 2 trượng 5 thước, tường nhử trên bốn mặt thà nh cao 5 thước 5 tấc, lầu nhìn giặc 55 sở, cử­a ống 6 sở, cừ nước 3 sở, đường đi bộ 34 sở.  Lại đắp đê vòng quanh 2125 trượng 8 thước, thân cao 1 trượng 5 thước, chân rộng 2 trượng. Lại là m hơn 40 vạn gian nhà .

Dựa và o thư tịch ta có thể kê ra được những tòa thà nh: thà nh nhử của Khâu Hòa đắp năm 618; La Thà nh của Trương Bá Nghi đắp lại năm 767; La thà nh đắp thêm năm 791; thà nh san đắp gộp các bộ phận nhử của các thà nh là m một thà nh nhử của Bùi Thái năm 803 (không chép tên nhưng chắc vẫn là  La Thà nh vì những thà nh được san gộp trước đửu mang tên La Thà nh); Thà nh Аại La đắp thêm của Trương Chu năm 808; Thà nh của Lý Nguyên Gia đắp năm 824 (thà nh nhử sát Sông Tô Lịch nà y chắc vẫn gọi La Thà nh), năm 858 Vương Thức trồng cây táo gai, đà o hà o, trồng tre gai gia cố phủ thà nh (phủ thà nh đô hộ cũng gọi La Thà nh); năm 868, Cao Biửn giữ phủ đắp La Thà nh.

Tám lần đắp hoặc sử­a thà nh quanh vùng Hà  Nội thời Bắc thuộc đửu là  những tòa thà nh trị sở của châu, của quận. Các tòa thà nh tựa như đửu quan hệ tới tên La Thà nh. Các tòa thà nh đửu do quan đô hộ người Trung Hoa đắp và  không nghi ngử gì nữa kử¹ thuật xây thà nh phải là  phương pháp kử¹ thuật Trung Hoa. Các tòa thà nh ngà y nay đửu không còn di tích rõ rà ng trên mặt đất. Giả hoặc có còn dấu tích đâu đó thì người ta hay lẫn lộn với các thà nh thuộc các triửu đại Việt Nam từ Thế kỷ XI trở vử sau. Tư liệu bản đồ cổ, dù vẽ rất sai lệch, cũng không có. Tư liệu tham khảo duy nhất là  bản đồ vẽ thời Hồng Аức, nhưng cũng chỉ còn những bản tam sao thời sau.

Những tòa thà nh trên đất Hà  Nội thời Bắc thuộc

Như trên đã viết, tám lần sử­a đắp thà nh của những quan cai trị người Hoa thời Bắc thuộc tới nay vẫn chưa ai chỉ rõ dấu tích là  nơi nà o của những di tích đang còn lại ở Hà  Nội. Những phát hiện khảo cổ đó đây bấy nay vì còn rất ít, di vật thì ít ửi, di tích thì phiến đoạn dù đã khiến người nghiên cứu có lúc đã reo mừng để đưa ra phán đoán táo bạo nhưng rồi lại phải kết luận chử đợi thêm chứng cứ.

Аã có một tác giả người Pháp Cl. Madrolle đã từng rất táo bạo vẽ một sơ đồ vị trí các thà nh của Khâu Hòa, thà nh Trương Bá Nghi và  thà nh của Cao Biửn, đại khái là  ở vùng Thủ Lệ, Quần Ngựa, Bách Thảo. à”ng không nói rõ căn cứ khoa học, (nhưng nhất định phải có căn cứ lập luận).

Thực ra những tòa thà nh đắp thời Bắc thuộc đúng là  ghi chép quá ít, mơ hồ, dấu vết thực địa không còn, nhưng tòa thà nh do Cao Biửn đắp được sử­ chép kử¹ hơn, có nhiửu triển vọng nhìn ra dấu vết dù là  phiến đoạn. Phương pháp vẫn phải là  trước hết phân tích điửu ghi chép của sử­ cũ và  cuối cùng trông đợi ở chứng cứ khảo cổ học.

Người xưa đã nói thật chí lý tận tín thư bất như vô thư (quá tin sách chẳng bằng không có sách).

Аúng vậy. Sách ghi vử La Thà nh có chu vi 1982 trượng 5 thước bằng khoảng hơn 6 km, lại chép trong đó là m 40 vạn gian nhà . Tin sao được một tòa thà nh nhử như vậy lại chứa nổi 5000 gian nhà . Tất nhiên con số 40 vạn gian nhà  ghi trong sách Аại Việt sử­ ký toà n thư  thật là  sai số quá đáng. Như vậy kích thước chu vi của tòa thà nh, số lượng nhà  là m trong thà nh là  không đáng tin. Thế nhưng sử­ chép rằng thà nh có là m lầu vọng địch môn lâu, ủng môn thì lại là  điửu đáng tin.

Ở nước ta thà nh có xây ủng môn đầu tiên có lẽ là  La Thà nh của Cao Biửn. Thuật ngữ ủng môn cũng xuất hiện lần đầu tiên và  cũng là  duy nhất ở thà nh của Cao Biửn. Một đoạn tường thà nh đắp bằng đất không chứa các di vật khác thật rất khó xác định chủ nhân của di tích, nhưng một ủng môn của một tòa thà nh có thể cho phép đoán định rằng người xây thà nh là  người Trung Hoa xây dựng với kử¹ thuật trúc thà nh đặc hữu của Trung Hoa. Thế là  tìm những yếu tố Trung Hoa trong thà nh cổ thà nh một phương pháp công tác hứa hẹn một thà nh quả tốt trong nghiên cứu thà nh cổ xây dựng thời Bắc thuộc trên đất Hà  Nội.

Quanh La Thà nh Hà  Nội ngà y nay, đây đó vẫn nghe thấy nhân dân nói tới di tích đấu đong quân ví như quãng ngã tư Láng Hạ-La Thà nh. Dấu tích không còn nữa nhưng người già  là ng Giảng Võ thì vẫn nhắc tới. Người ta cứ truyửn miệng giải thích cho nhau rằng xưa kia có một loại công trình có tường bao khép kín dùng để lường quân số. Người ta cho quân xếp hà ng kín công trình và  đếm xem có bao nhiêu quân rồi dùng con số đó mà  ước tính số quân của mỗi lần khi cho quân đứng kín công trình nà y. Công trình có công dụng như một cái đấu đong nên gọi là  đấu đong quân.

Có một đấu đong nay còn đủ hình dạng để có thể dễ nhận rõ, đó là  di tích ở khoảng cách dốc Bưởi chừng 500 mét đi vử phía Cầu Giấy. Di tích là  một ô tường thà nh hình gần vuông. Quãng nà y có con đường cổ đi qua sông Tô Lịch vử xứ Аoà i xưa. Qua Sông Tô chỗ nà y có cầu gỗ (nay đã thay bằng cầu bê tông chịu lực cao). Аường từ Bưởi qua đây vử Cầu Giấy vốn là  tường La Thà nh. Vì người Pháp đã trải nhựa thà nh đường ô tô nên quãng thà nh được giữ gìn khá nguyên vẹn. Sông Tô Lịch vốn là  ngoại hà o thiên nhiên của La Thà nh dù có biến dạng mức độ song vẫn tồn tại bám sát ngoà i La Thà nh (tức đường nhựa).

Nơi có đấu đong nà y xưa mở một cử­a thà nh gọi là  Cử­a Аoà i (Аoà i Môn tức Cử­a Tây). Аấu đong là  vùng tường thà nh nhử hình vuông, mỗi cạnh còn đo được là  52 mét, bọc quanh Cử­a Аoà i.

Cũng ở quãng nà y bên kia Sông Tô Lịch là  địa phận Xã Аoà i Môn. Xã nà y mang tên Аoà i Môn vì đối diện với cổng Аoà i bên kia sông. Vì tên cổng thà nh mà  đặt tên xã.

Tấm Hoà i Аức phủ toà n đồ vẽ năm Minh Mạng thứ 12 (1831) vẽ rõ rà ng vị trí Аấu đong rất đúng với vị trí thật trên thực địa. Một bản đồ mới do Nguyễn Anh vẽ in trong sách Lịch sử­ Thủ đô Hà  Nội năm 1960 điểm rõ rà ng ranh giới Xã Аoà i Môn ở phía bử Tây Sông Tô Lịch. Thế là  rất minh bạch mấy chục hộ ở ven bử Аông sông Tô khoảng Аấu đong là  bộ phận xâm cư rất gần đây.

Аấu đong quân bên bử Аông sông Tô được nhiửu người biết nhưng thực chất Аấu đong là  một ủng thà nh thì chưa ai được nghe giải thích, kể cả người có học ít nhiửu.

Ủng thà nh (cũng gọi là  úng thà nh) theo định nghĩa của Từ Hải là  thà nh bao bên ngoà i cử­a thà nh lớn để tăng cường sức phòng vệ của thà nh, xây hình tròn hay vuông tùy theo địa hình, mở một cử­a nách bên phải hay trái tùy sự tiện lợi của thà nh. Chức năng của ủng thà nh là  bảo vệ mặt trước của cử­a thà nh. Muốn và o thà nh phải qua cử­a nách của ủng thà nh. Có ủng thà nh thì không ai có thể nhìn thấy trong thà nh.

Sách Toà n thư ghi vử La Thà nh của Cao Biửn có xây 6 ủng môn. Vậy ủng môn có khác gì ủng thà nh ? Thà nh nà o cũng phải mở cử­a, ít nhất là  một cử­a, thế nhưng không phải cử­a thà nh nà o cũng xây đắp ủng thà nh. Chỉ cử­a nà o có đắp ủng thà nh để bảo vệ mới gọi là  ủng môn. Cho nên có thể hiểu rằng thà nh của Cao Biửn có 6 cử­a được xây ủng thà nh bảo vệ, có thể số cử­a mở lớn hơn nữa.

6 ủng môn là  những cử­a nà o, xưa nay chưa có ai chỉ rõ. Cho tới nay mới thấy 1 di tích ở Аoà i Môn. Như trên đã viết, nhân dân ta vẫn gọi di tích ủng thà nh là  đấu đong như vậy nơi nà o được gọi là  đấu đong đửu có thể đoán định rằng đó là  ủng thà nh. Quãng ngã tư Láng Hạ-La Thà nh, nhân dân cũng gọi là  đấu đong. Vết tích nay không còn gì, song chính ở nơi đây khảo cổ đã tìm ra một cử­a  của La Thà nh. Có thể nghĩ rằng cử­a thà nh nà y trước đây có đắp ủng thà nh và  cử­a nà y chính là  một ủng môn.

Thực địa cho phép khẳng định điểm mà  bản đồ cổ ghi là  Đấu đong chính là  một ủng môn của La Thà nh và  đường Bưởi ngà y nay chính là  La Thà nh đắp từ thời Bắc thuộc. Cử­a Аoà i đã bị lấp để là m con đường thông đi Cầu Giấy, tường ủng thà nh cũng bị lấp sau nhưng vẫn còn thấy rõ rà ng.

Аường qua sông Tô (đi sát tường phía Nam của ủng thà nh, có cầu qua hà o) vử xứ Аoà i nay là  đường trải nhựa, cầu nay là  cầu bê tông trọng tải lớn.

Dù sao di tích ủng môn đã được quyết định giữ gìn tiến tới tu sử­a.

Ủng thà nh Аoà i Môn được coi là  một phát hiện, có giá trị đóng góp và o việc tìm hiểu nghiên cứu vử Thăng Long. Dù mới chỉ một địa điểm song chứng cứ khảo cổ học nà y sẽ giúp cho những ý kiến đoán định vử những tòa thà nh thời Bắc thuộc trên đất Hà  Nội tiếp cận chân lý thêm một bước.

Chinhphu.vn