Tứ bất tử - những truyền thuyết gắn bó với Thăng Long - Hà Nội
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 09:57, 10/09/2010
Tứ bất tử là một huyửn thoại vử việc nhân dân ta tôn vinh và thử phụng bốn vị thánh không bao giử chết (Tứ bất tử): Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Thánh Chử Đồng Tử và Thánh mẫu Liễu Hạnh.
Kể cũng lạ, vì các vị thánh thần mà dân gian tôn sùng thì rất nhiửu, vậy mà chỉ có 4 vị được đặt riêng ra, liệt và o hạng siêu thánh. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kĩ vử mọi phương diện, chúng ta sẽ tìm ra được những căn nguyên sâu xa, vừa độc đáo, vừa già u chất văn hoá sử thi của truyửn thuyết dân tộc được lưu truyửn bao đời nay trong dã sử.
Con số 4 trong dân gian từ xưa đã có nhiửu ý nghĩa mang tính triết lí: bốn phương tám hướng, tứ hải giai huynh đệ, tứ trụ triửu đình, tứ tuyệt... Có thể thấy rằng mọi cơ cấu giá trị vật chất tinh thần nhiửu khi được bắt đầu bằng bộ tứ.
Theo các nhà nghiên cứu (Lê Đức Thịnh 2001, Trần Ngọc Thêm 2001), Thánh Tản Viên được coi là vị thánh được nhắc tới đầu tiên. Có lẽ đây là vị thánh liên quan tới truyửn thuyết vử việc bảo tồn, giữ gìn đất nước trong cuộc đấu tranh đối chọi với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm của dân tộc.
Truyện kể vử xung đột mang mà u sắc tình ái giữa hai vị thần tượng trưng cho hai thế lực đối chọi nhau: Thuỷ Tinh (Thần Nước), là sức mạnh tự nhiên, biểu hiện của thiên tai lũ lụt, bão tố ... mà hà ng năm nhân dân ta phải gánh chịu, nhất là cư dân lưu vực đồng bằng sông Hồng (mà Thăng Long là vùng chịu ảnh hưởng khá nặng nử).
Còn Sơn Tinh (Thần Núi), còn gọi là Thánh Tản Viên, đại diện cho sức mạnh vật chất, ý chí, sự thông minh, lòng quả cảm và sự đoà n kết toà n dân, đã chống chọi kiên cường và chống chọi thà nh công với sức huỷ diệt tà n phá của mọi thiên tai địch hoạ.
Trong tâm thức dân gian của người Việt, Tản Viên là vị thánh biểu đạt cho những khả năng to lớn và vĩnh viễn của cộng đồng trong lao động sáng tạo ra nguồn của cải vô tận và trong chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo vệ cuộc sống chung.
Tuy nhiên, đã có hai quan niệm và cách giải thích nguồn gốc của vị Thánh nà y.
Các học giả thời phong kiến (các sử gia, các nhà trước tác) cho Tản Viên là "hạo khí anh linh của trời đất sinh ra" (Kiửu Phú, trong Lĩnh Nam chích quái), hoặc cho "Tản Viên là 1 trong 50 người con của Lạc Long Quân, à‚u Cơ theo cha xuống biển " (đúng ra thì phải là chắt khoảng đời thứ 19).
Chà ng "từ biển đi và o, qua cửa Thần Phù, ngược sông Hồng đến Long Đỗ (Hà Nội), Trấn Trạch, rồi ngược sông Lô, đến Phúc Lộc giang". Từ đấy, " nhìn thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp, lại thêm phía dưới dân chúng thuần phác, thái bình", nên chà ng "đã là m một con đường thẳng như kẻ chỉ, từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía Nam núi Tản Viên, tới động An Uyên, thì lập diện để nghỉ ngơi" (Trấn Thế Pháp, cũng trong Lĩnh Nam chích quái, nhưng là một dị bản). Các tác giả Lịch triửu Hiến chương (Phan Huy Chú) và Việt sử Thông giám cương mục ... cũng đửu có những quan niệm tương tự.
Trong khi đó theo quan niệm của mọi người, được thể hiện qua các bản thần thích thần phả ở các là ng trong vùng Truyửn thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Tây, Hà Nội, Vĩnh Phú) thì Thánh Tản Viên lại là người có thực, xuất thân từ tần lớp nghèo khổ trong dân chúng.
Chà ng tên thực là Nguyễn Tuấn, có tà i hô phong hoán vũ, dũng cảm, được Hùng Vương kén là m rể, gả con gái Mửµ Nương. Sau đó, Thủy Tinh vì không được chọn, đã nổi giận đem binh đến đánh, xảy ra các cuộc chinh chiến trong nhiửu năm trời. Rốt cuộc, Thủy Tinh luôn là kẻ bại trận...
Quan niệm nà y phù hợp với những quan niệm chung đã có vử các thánh bất tử trong tâm thức dân gian, bởi vì chính quan niệm ấy đã tạo nên một hình tượng "Thánh Tản Viên" có tính nhất quán và hoà n chỉnh.
Còn Thánh Gióng là một vị thánh quá quen thuộc với nhân dân ta. Truyửn thuyết nà y gắn bó và lưu truyửn với mọi thế hệ người Việt. Thông qua một câu chuyện một đứa trẻ kì lạ, lên 3 rồi mà chẳng biết nói cười gì cả. Vậy mà khi giặc à‚n từ phương Bắc tới thì cậu bé tầm thường kia bỗng nhiên đổi khác, đứng dậy nói năng hết sức dõng dạc và mau chóng lớn thà nh một tráng sĩ. Vị tráng sĩ nà y cườ¡i ngựa sắt, đội nón sắt, cầm gậy sắt ... một mình xông ra giữa trận tiửn. Đánh tan giặc à‚n, vị anh hùng bử lại tất cả, một mình một ngựa bay thẳng lên trời.
Đây chắc chắn là bà i ca hà o hùng nhất vử truyửn thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta. Những con người bình dị, lớn lên từ nghèo khó, nhưng khi đất nước lâm nguy thì sẵn sà ng xả thân, hy sinh vì nghĩa lớn. Lúc đó, họ trở thà nh một con người khác hẳn, có sức mạnh phi thường. Truyửn thuyết sử thi già u chất anh hùng ca nà y vẫn còn lưu giữ bằng các di tích rất phong phú tại là ng Gióng, Sóc Sơn, Hà Nội.
Truyửn thuyết còn kể rằng: à”ng sinh ra tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội thời Vua Hùng thứ 6. Thánh Gióng là người "trời" đầu thai là m đứa trẻ tuy lên 3 mà không biết nói cười.
Trong trận chiến với giặc à‚n, Thánh Gióng cùng chiến đấu với Thánh Hùng Linh Công, cả hai cùng hợp binh đánh một trận quyết định ở chân núi An Vũ Ninh Sơn. Hùng Linh Công là cháu ruột Vua Hùng, một danh tướng thuộc đời Hùng Vương thứ 6 (1718 - 1631 TCN), ông được vua trao cho kim đao và 3 vạn binh mã đi tiên phong cùng với Thánh Gióng đánh tan giặc à‚n.
à”ng được Vua Hùng giao cho cai quản xứ Kinh Bắc, ông cũng có công trừ hổ để giữ cuộc sống an bình cho dân. à”ng sinh ra và mất trên đất Hiệp Hòa, Bắc Giang và được thử ở Đửn IA khoảng 3.700 năm nay.
Trong "Trường thiên đối liên" (mỗi vế đối có 71 chữ Hán) còn lưu lại ở Đến IA có câu nêu công đức của hai Thánh: ... Diệt quốc cừu, điện quốc cơ, trùng tiêu quốc xí/Đương ư sóc phong liệt tướng/Thà nh sở vị: giang nam nhất nhân, giang bắc nhất nhân (dịch nghĩa: ... Diệt giặc nước, xây móng nửn, dựng cử Tổ quốc/Cùng trang liệt tiếng Sóc Sơn/Thà nh truyửn thuyết: phía Nam sông tướng giửi, phía Bắc sông người tà i (tức là phía Nam sông Cầu có tướng giửi là Thánh Gióng, phía Bắc sông Cầu có người tà i là Hùng Linh Công).
Truyửn thuyết thứ ba là truyửn thuyết vử Thánh Chử Đồng Tử, lan truyửn từ thế kỉ XV (Lê Đức Thịnh, đã dẫn, tr. 283). Đây là câu chuyện vử tình duyên giữa công chúa Mửµ Nương Tiên Dung với chà ng trai nghèo khổ Chử Đồng Tử.
Tương truyửn Chử Đồng Tử sống cùng cha là Chử Cù Vân tại Chử Xá (huyện Văn Giang, Hưng Yên); có bản viết là Chử Vi Vân. Theo "Việt sử giai thoại" của Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo dục), chẳng may nhà cháy, mất hết của cải, hai cha con chỉ còn lại một chiếc khố phải thay nhau mà mặc. Lúc người cha lâm chung, ông gọi con lại bảo rằng hãy giữ chiếc khố lại cho bản thân. Thương cha nên Chử Đồng Tử liệm khố theo cha, mình thì chịu cảnh trần truồng khổ sở, kiếm sống bằng cách ban đêm câu cá, ban ngà y dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyửn bán cá hoặc xin ăn.
Thời ấy Vua Hùng Vương thứ ba có cô con gái tên là Tiên Dung đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyửn rồng của công chúa đến thăm vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đà n sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình và o cát lẩn tránh. Thuyửn ghé và o bử, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây mà n ở bụi lau để tắm, ngử đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hửi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.
Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung vử cung. Nà ng biết ý nên cùng chồng mở chợ Hà Thám đổi chác với dân gian. Buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thử Tiên Dung-Chử Đồng Tử là m chúa (theo "Việt sử giai thoại" của Nguyễn Khắc Thuần, NXB Giáo dục).
Một hôm có người bà y cho cách ra ngoà i buôn bán nhiửu lãi, Tiên Dung khuyên chồng nghe theo. Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quử³nh Tiên (có bản ghi là Quử³nh Vi - tham khảo "Việt sử giai thoại" - Chuyện kể Chử Đồng Tử; đây là tên một ngọn núi chỉ có trong thần thọai), Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật Quang. Chà ng bèn giao tiửn cho khách buôn đi mua hà ng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyửn quay lại đón, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông.
Vử nhà , Chử Đồng Tử truyửn mọi sự lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bử việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hà ng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thà nh quách, cung và ng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dân hương hoa quả ngọt đến xin là m bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.
Nghe tin, Vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Quân nhà vua đến, mọi người xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng cự cha mình. Trời tối, quân nhà Vua đóng ở bãi Tự Nhiên cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thà nh trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung-Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nửn đất cũ bỗng sụp xuống thà nh một cái đầm rất lớn.
Nhân dân cho đó là điửu linh dị bèn lập miếu thử, bốn mùa cúng tế và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Mà n Trù và chợ đó là chợ Hà Thị.
Sự gặp gỡ có phần kì bí đã thêu dệt nên một thiên tình sử lạ và o loại bậc nhất trong lịch sử dân tộc. Lạ lùng là ở đây có một tình yêu và quan niệm bạo dạn, tới mức dũng cảm, vượt qua tất cả mọi ranh giới. Nà ng Tiên Dung dám yêu, dám lấy chà ng Chử Đồng Tử nghèo hèn, bất chấp mọi lễ giáo phong kiến và ngôi vị thứ bậc trong xã hội. Đây là một nét đẹp đậm chất nhân văn nhất trong bốn vị Thánh của Tứ bất tử. Câu chuyện thể hiện nguyện vọng xây dựng một cuộc sống phồn vinh vật chất trên nửn tảng một tình yêu đích thực. Người ta đã thống kê có tới 72 là ng lập điện thử Chử Đồng Tử, rải rác ở hai bử tả ngạn sông Hồng. Trong đó, có một đửn thử lớn lập tại thôn Chử Xá, Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội.
Vị thánh cuối cùng trong bốn vị, có tên thật là Liễu Hạnh, sinh ra và o thời Lê (1557). Liễu Hạnh Công chúa là một trong những vị thần quan trọng nhất của tín ngườ¡ng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh hoặc ở nhiửu nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.
Liễu Hạnh Công chúa được thử ở rất nhiửu nơi như Phủ Giầy ( Nam Định), phủ Tây Hồ và đửn Sòng Sơn Vọng Từ (phố Tôn Đức Thắng), đửn Dâu Tam Điệp (Ninh Bình), đửn Sòng và đửn Phố Cát (Thanh Hóa), đửn Phủ Già y (TPHCM) ... trong đó, phủ Giầy ở Vụ Bản Nam Định là nơi quan trọng nhất.
Hà ng năm, đến ngà y huý của bà , dân chúng đi trẩy hội rất đông, đặc biệt là ở hội Phủ Giầy và o tháng 3 âm lịch (từ mồng 1 đến mồng 10). Dân gian có câu: "Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ", nói vử ngà y giỗ của hai vị được dân gian thử cúng: "Cha" là Vua cha Bát hải Động Đình và Trần Hưng Đạo, còn "Mẹ" chính là bà Chúa Liễu.
Liễu Hạnh là một điển hình vử sự khẳng định vai trò của người phụ nữ, dám nói lên tiếng nói phản kháng với triửu đình phong kiến, còn mang nặng tư tưởng Nho giáo, không coi trọng vai trò của người phụ nữ. Liễu Hạnh được dân gian tôn sùng là Thánh Mẫu.
Tục thử Tứ bất tử là một tục lệ mang mà u sắc tín ngườ¡ng nhưng lại phản ánh đậm nét truyửn thuyết lịch sử và có giá trị văn hoá rất sâu sắc. Đây chính là nửn tảng tư tưởng là m nên cốt cách của con người Việt Nam: kiên trung, bất khuất, thông minh, sáng tạo, tình nhà nghĩa nước hà i hoà . Chất nhân văn được kết tinh, chắt lọc trong bao chặng đường lịch sử đã là m nên biểu trưng hiển hách nhất của con người Việt Nam ta. Đó là bử dà y, là cội nguồn của đời sống tinh thần là m nên sức mạnh của dân tộc trong mọi hoà n cảnh từ xưa tới nay.