Nhà Lý - những trang lịch sử huy hoà ng
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 12:04, 17/06/2011
Thời gian ở ngôi báu của các Đức vua tuy dà i ngắn khác nhau, song các Đức vua nhà Lý đửu dốc lòng vì vương triửu, vì nước, vì dân và đửu để lại dấu ấn của vương triửu mình trong quá trình đấu tranh giữ nước, xây dựng đất nước nói chung Thăng Long nói riêng...Vậy nên các sử gia của nước Việt đửu đồng lòng đánh giá cao vương triửu Lý: là một vương triửu đã đóng góp nhiửu thà nh tựu cho lịch sử nước nhà ở một số lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, kiến trúc...Những thà nh tựu đó của vương triửu Lý - những trang và ng mang dấu ấn của nhà Lý sẽ còn mãi với đất nước, với Thăng Long - Hà Nội.
Quyết định dời đô
Tượng đà i vua Lý Thái Tổ (ảnh Vũ Hưng) |
Mùa thu năm 1010, Lý Thái Tổ có một quyết định lịch sử, chọn thà nh Đại La đô cũ do Cao Biửn xây dựng nằm ven sông Tô Lịch, là m đô mới cho vương triửu Lý. Đó là một sự kiện quan trọng, đánh dấu bước chuyển mình của vận mệnh dân tộc. Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) nằm trong miửn núi non hiểm trở, mang tính phòng thủ cao đã hoà n thà nh vai trò lịch sử của mình trong buổi đầu dựng nước. Thăng Long là mảnh đất nằm giữa vùng đồng bằng trù phú, hội đủ những điửu kiện cần thiết để xây dựng trung tâm quyửn lực, lãnh đạo đất nước phát triển trong thời đại mới. Kinh đô Thăng Long - hình tượng của Rồng bay - biểu tượng cho khí thế vươn lên mạnh mẽ của một vương triửu đồng thời thể hiện khát vọng vươn tới những chân trời mới của dân tộc. Kinh đô mới, khí thế mới, sức sống mới...sẽ tạo điửu kiện thuận lợi để phát triển đất nước, xây dựng một triửu đại mới cực thịnh, tạo bản lử vững chắc cho các triửu đại sau nà y tiếp tục điửu hà nh đất nước, xây dựng quốc gia phồn thịnh. Sự phát triển không ngừng của Thăng Long - Hà Nội; sự kiên cường bất khuất của Thăng Long - Hà Nội; sự hà o hoa thanh lịch của Thăng Long - Hà Nôi; cùng niửm tin yêu của đồng bà o trong và ngoà i nước suốt dặm dà i lịch sử 1000 năm qua đã minh chứng sự đúng đắn và sáng suốt cho ý tưởng thiên đô và quyết định thiên đô của Đức vua Lý Công Uẩn.
Đặt tên nước Đại Việt
Thế kỷ thứ VII trước Công Nguyên, nước Văn Lang của các Vua Hùng ra đời, đánh dấu buổi bình minh của lịch sử dân tộc. Năm 258 trước Công nguyên, Thục Phán thủ lĩnh bộ tộc à‚u Việt đã lập nước à‚u Lạc sau khi thôn tính đất đai của Vua Hùng thứ 18, lên ngôi vua, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh). Bắc Thuộc lầm than kể từ khi Triệu Đà xâm lược nước à‚u Lạc (năm 179 TrCN hoặc 207 TrCN). Trong suốt đêm dà i đau thương đó, hai lần dân tộc ta già nh được độc lập. Đó là thời kử³ Hai Bà Trưng đánh đuổi quân xâm lược phương bắc già nh quyửn độc lập (năm 40 - 43 sau Công Nguyên); và (năm 544 - 602) Lý Bí đánh bại quân xâm lược nhà Lương, xưng đế (sử gọi là Lý Nam Đế), lập nước Vạn Xuân, dựng "Tô Lịch giang thà nh" bên dòng sông Tô thơ mộng". Năm 938 - Ngô Quyửn đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, kết thúc 1000 năm Bắc thuộc.
Sau khi Ngô Quyửn mất, đất nước rơi và o thảm loạn 12 sứ quân đó là và o năm 966. Đinh Bộ Lĩnh quê ở Gia Viễn (Ninh Bình) đã tập hợp nghĩa quân lần lượt dẹp được "loạn 12 sứ quân", thu non sông vử một mối. Năm 968 thủ lĩnh "cử lau" - Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, xưng "Đại Thắng Minh Hoà ng Đế", đặt quốc hiệulà Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, sử gọi là Đinh Tiên Hoà ng.
Vị vua thứ ba của Vương triửu Lý là Lý Thánh Tông, sinh năm 1023 tại Thăng Long. Tên thật là Lý Nhật Tôn, lãnh đạo đất nước từ 1054 -1072. Đức vua nổi tiếng là một bậc minh quân, có lòng thương dân như con. Trong 18 năm trị vì, nhà vua đã là m được nhiửu việc lớn, để lại dấu ấn trong lịch sử. Như, cho xây Văn Miếu; xây tháp Báo Thiên; "phá Tống bình Chiêm", mở mang cương thổ. Nhưng, lịch sử còn ghi nhận đức vua chính là người đã đổi quốc hiệu Đại Cồ Việt thà nh Đại Việt (năm 1054), mở sang trang sử mới của đất nước. Tuy bị gián đoạn (thời nhà Hồ và thời thuộc Minh), song quốc hiệu Đại Việt đã duy trì được khoảng 743 năm trải các triửu Lý, Trần, Lê, Mạc. Theo dòng chảy của lịch sử dân tộc thì, tính từ thời các vua Hùng đến nhà Lý, đây là lần thứ năm quốc gia đổi quốc hiệu mới (Văn Lang, à‚u Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt). Từ buổi đó cái tên Đại Việt đã lưu và o sử sách "Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nửn văn hiến đã lâu/ Núi sông bử cõi đã chia/ Phong tục bắc nam cũng khác".
Ban bố Hình thư - Bộ luật đầu tiên của nước ta
Sự kiện nà y được ghi lại trong Đại Việt sử ký toà n thư: "ngà y 1 tháng10 năm 1042, ban Hình thư. Trước kia việc kiện tụng trong nước phiửn nhiễu, quan lại giữ pháp luật câu nệ luật văn, cốt là m cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy là m thương xót, sai Trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thà nh điửu khoản, là m thà nh sách Hình thư của một triửu đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách là m xong, xuống chiếu ban hà nh, dân lấy là m tiện. Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ rà ng, cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo (là m sáng tử đạo)". Theo Lịch triửu hiến chương loại chí thì, Hình thư gồm có ba quyển, đã bị thất truyửn. Tuy nhiên qua sử sách để lại cho ta thấy đây là bộ luật thà nh văn đầu tiên trong lịch sử dân tộc, là mốc quan trọng trong lịch sử pháp quyửn Việt Nam. Hình thư cho thấy bộ máy chính quyửn trung ương tập quyửn nhà Lý đã có đủ các thiết chế để quản lý, điửu hà nh đất nước. Hình thư ra đời và o thời vua Lý Thái Tông. Lý Thái Tông là con trưởng của Thái Tổ Lý Công Uẩn còn có tên là Lý Phật Mã, sinh năm 1000, trị vì đất nước từ năm 1028 đến năm 1054.
Bà i thơ Nam quốc sơn hà - Bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên!
Lý Nhân Tông là vị vua thứ tư của Nhà Lý, là con của vua Lý Thánh Tông và nguyên phi ử¶ Lan. Nhà Vua sinh năm 1066 và mất năm 1127. Nhà vua lên 6 tuổi thì vua cha (Lý Thánh Tông) mất. Nhà Tống coi việc vua nối ngôi còn thơ ấu như một cơ hội tốt, bèn chuẩn bị quân lương, tập kết lực lượng ở Ung Châu chuẩn bị sang đánh Đại Việt. Lý Thường Kiệt vị chủ tướng nổi tiếng trong việc dùng binh khi đó đã chủ động mang quân sang đất Tống, bao vây thà nh Ung Châu, tiêu hao sinh lực địch. Quân Lý đã hạ thà nh Ung Châu (năm 1076), đập tan âm mưu của vua quan nhà Tống thôn tính Đại Việt. Không từ bử dã tâm đánh chiếm Đại Việt, nhà Tống lại cử Quách Quử³, Triệu Tiết đem đại binh sang "hửi tội". Một lần nữa, dưới sự chỉ huy của Phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt, quân dân Đại Việt lập phòng tuyến trên sông Như Nguyệt, đánh bại quân nhà Tống. Bà i thơ thần - "Bản Tuyên Ngôn Độc Lập" đầu tiên của dân tộc Việt đã vang lên trên sóng nước Như Nguyệt, khích động tinh thần quân sử¹, dấy lên niửm tự hà o dân tộc và đó chính là vũ khí chiến thắng kẻ thù: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hà nh khan thủ bại hư" - "Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rà nh rà nh định phận ở sách trời/ Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời"...Hùng khí của bà i thơ Thần đã xuyên suốt không gian, vượt qua thời gian vọng mãi đến ngà n năm.
Lần đầu tiên vẽ bản đồ nước Việt
Lý Anh Tông là vị vua thứ sáu của Nhà Lý, trị vì Đại Việt từ năm 1138 - 1175. Trong hai năm:1171 -1172, nhà vua xa giá đi tới nhiửu vùng núi non hiểm trở của đất nước, tìm hiểu đời sống sinh hoạt của người dân. Sai người là m tậpbản đồ nước Đại Việt, và soạn sách "Nam Bắc phiên giới đồ". Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một vị vua nhà Lý đã quan tâm đến việc vẽ bản đồ đất nước, vẽ lại hình thế núi sông, phân định rạch ròi biên giới Đại Việt với các nước lân bang. Tiếc rằng tập bản đồ đó đã thất lạc. Việc là m có ý nghĩa to lớn ấy của vua Lý Anh Tông đã đặt nửn móng cho ý thức giáo dục, xây dựng, và bảo vệ biên cương tổ quốc cho các thế hệ sau.
Chính quyửn thân dân, vì dân, thương dân
Khi đang tại vị, Lý Thái Tổ - vị vua đầu triửu nhà Lý đã cho xây cung Long Đức ở phía đông thà nh Thăng Long, giữa khu vực dân cư sinh sống và buôn bán để Thái tử Lý Phật Mã ở, tạo cho Thái tử có điửu kiện tìm hiểu đời sống dân sinh, với mong muốn người kế nghiệp tương lai sẽ gần dân, hiểu dân và sau nà y có những chính sách thân dân, vì dân.
Năm 1029, vua Lý Thái Tông (Lý Phật Mã) cho sửa sang điện Cà n Nguyên và đổi tên là điện Thiên An. Hai bên tả hữu đặt hai lầu chuông đối xứng nhau, tạo điửu kiện cho dân ai có việc kiện tụng, oan uổng thì đến đánh chuông, nhà vua sẽ đích thân xem xét, xử lý. Năm 1033, nhà vua lại cho đúc quả chuông nặng một vạn cân (khoảng 6 tấn), treo ở lầu chuông, để tiếng chuông vang thấu tai vua. Việc là m đó là một minh chứng cho chính sách thân dân của vị vua thứ hai của Nhà Lý.
Vua Thái Tông ở ngôi cao nhưng luôn gắn bó với lao động; chia sẻ những khó khăn với người lao động nhất là với những người nông dân. Tháng 2 năm 1038, Đức vua thân hà nh ra cửa Bố Hải cà y ruộng gọi là tịch điửn. Ngà i là m lễ tế Thần nông, rồi tự mình cầm cà y xuống ruộng. Thấy vậy các quan can rằng: "Đó là việc của nông phu, bệ hạ việc gì phải là m thế?". Đức vua trả lời: "Trẫm không tự cà y thì lấy gì là m xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ noi theo...". Nói rồi, vua đẩy cà y ba lần mới thôi.
Còn Lý Thánh Tông (1054 “ 1072) nổi tiếng là một minh quân. Ngà i có lòng thương dân như con. Sử gia còn chép: "Nhân một năm trời rét đậm, Thánh Tông bảo các quan hầu cận rằng: Trẫm ở trong cung ngự sưởi than thú, mặc áo hồ cừu mà còn rét thế nà y. Huống chi những tù phạm giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hửi chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật thương tâm lắm. Nói rồi vua truyửn cho lấy chăn chiếu cho tù nằm, và mỗi ngà y cho hai bữa ăn".
Xây dựng trường đại học đầu tiên của nước ta
Năm 1070, vua Lý Thánh Tông chọn khu đất ở phía Nam hoà ng thà nh Thăng Long để xây Văn Miếu. Ngoà i chức năng thử các bậc Tiên thánh, Tiên nho, Văn Miếu còn mang chức năng của một trường học Hoà ng gia. Học trò đầu tiên là Thái tử Lý Cà n Đức, là Hoà ng tử con vua Lý Thánh Tông với Nguyên phi ử¶ Lan, lúc đó mới 5 tuổi theo học. Học trò đầu tiên đó sau nà y nối ngôi, đó chính là Đức vua Lý Nhân Tông. Năm Ất Mão (1075), Nhà Lý mở khoa thi đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam để chọn người tà i. Khoa thi năm ấy thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Tới năm 1076, vua Lý Nhân Tông (1072 “ 1127) đã quyết định xây nhà Quốc Tử giám kử sau Văn Miếu, để là m nơi cho các hoà ng tử và con các vị đại thần đến học. Việc mở trường dạy học, cho dù ý tưởng ban đầu chỉ là để con cái hoà ng gia có nơi "nấu sử sôi kinh" cũng đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự nghiệp giáo dục của Nhà Lý, của đất nước. Sau nà y các triửu vua Trần, Lê...đã tiếp tục phát triển Văn Miếu - Quốc Tử Giám thà nh trường đại học đầu tiên, là trung tâm giáo dục của cả nước.
Trên lĩnh vực xây dựng - kiến trúc, nhà Lý cũng để lại cho hậu thế những tuyệt tác như Chùa Diên Hựu được xây năm 1049, (còn gọi là Chùa Một cột); tháp Báo Thiên - một trong An Nam tứ đại khí - dựng năm 1057, cao 10 trượng với 12 tầng, tầng trên bằng đồng, nằm ở phía đông Hồ Gươm...Và hơn tất cả là khu Di tích Hoà ng thà nh Thăng Long vừa được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới./.