Bí ẩn vùng đất của bùa ngải
Media - Ngày đăng : 11:39, 02/08/2011
Tận mục sở thị chiêu bử bùa huyửn bí
Xe khách dừng hẳn, trước mắt tôi, khu phố nghèo huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình nằm dựa lưng và o núi. ành nắng chiửu hắt xuống qua những nếp nhà tạo thà nh những tia vằn vện in xuống mặt đường. Tôi táp và o một quán lá ven đường, gọi chén nước rồi cất tiếng hửi thăm: Từ đây và o bản của người Mường Ao Tá còn bao xa, đường có dễ đi không cụ ơi. Cụ già bán nước nghe câu hửi, rồi như giật mình nhìn tôi từ đầu đến chân. Cụ không trả lời mà cúi xuống là u bà u: Lại có người muốn đi giải quyết ân oán rồi đây. Vừa đứng dậy trả tiửn, ngay lập tức, gã xe ôm phanh kít xe trước mặt tôi, hất hà m hửi: Chú em vử đâu, lên anh chở, giá hữu nghị thôi. Tôi nói gọn lửn: Và o Ao Tá, anh đi không?.
Gã xe ôm nghe thế miệng nín như thóc ngâm, mặt đuỗn ra. Gấp đôi tiửn, giúp đỡ nhau là chính, anh chở em đi nhé, tôi khẩn khoản. Gã liửn nhảy phóc xuống, nói thầm và o tai: Chẳng phải anh chê tiửn, chú bảo anh chở lên giời anh cũng đi nhưng và o đó gấp mười lần tiửn anh cũng chịu. Dân trong đó lớn lên đã biết là m bùa, mà họ là m chuẩn lắm. Và o đó lỡ họ táy máy là m cho mình một nhát thì rồi đời. Sau khi gạ gẫm và i gã xe ôm nữa bằng chiêu thức gấp đôi tiửn mà không có kết quả, tôi bấm máy gọi cho anh bạn tên Phăng, người Hòa Bình.
Anh ngần ngừ nhưng rồi bảo: Sống chết có số, thử liửu với cậu một phen xem sao. Nửa tiếng sau anh đến, xe máy xuất phát từ chân cầu Hôm, lúc đó khoảng 16 giử, trời đã bắt đầu xâm xẩm tối. Anh Phăng bảo: Tớ nghe người là ng bảo ở trong nà y có thầy bùa tên Đinh Thị Hạnh là đệ tử chân truyửn của người Ao Tá. Bà nà y điửu khiển được âm binh, có thể là m cho người ta dở điên dở dại hoặc chết bất đắc kử³ tử. Chúng tôi hửi thăm đường đến nhà bà Hạnh.
Căn nhà sà n nằm hiu hắt dưới chân đồi, ánh sáng hắt ra những tia và ng ệch, ma quái. Tôi dợm chân bước và o nhà , lớn tiếng cất giọng như để tự trấn an mình. Ai đó, có việc gì, lên đây, một giọng phụ nữ phát ra từ trên gác. Chúng tôi dò dẫm lên cầu thang đã ọp ẹp, khói hương trầm nghi ngút bay. Trong một căn phòng rộng, một người đà n bà xõa tóc ngồi trước ban thử, đầu trùm khăn trắng, trước mặt là một chậu nước nhử. Bà ta cầm que hương đang cháy dở, ngửa mặt vẽ và o không gian những đường kử³ dị. Miệng bà lẩm bẩm đọc một thứ ngôn ngữ gì đó mà không ai có thể hiểu nổi.
![]() |
Bà Hạnh đang là m bùa trước ban thử nhà mình. |
Chúng tôi chưa kịp nói thì người đà n bà đã lên tiếng: Các chú chắc là người ở xa đến. Có việc gì, nói ngắn gọn thôi. Tôi lắp bắp trình bà y kịch bản: Dạ, thưa thầy, con dưới Hà Nội, nghe tiếng thầy nên tìm lên đây. Cũng chỉ vì đường tình duyên lận đận, trót yêu thương một người phụ nữ đã có gia đình. Con mạn phép xin thầy là m bùa cho người phụ nữ kia đứt duyên với chồng mà sẵn sà ng chung sống với con. Chi phí mọi thứ xin thầy không phải nghĩ.
Tôi vừa dứt lời, thầy Hạnh quay ra, kéo chiếc khăn trắng trên đầu xuống. Người phụ nữ nà y có khuôn mặt trắng bệnh, đôi mắt lử đử rất khó đoán tuổi. Bà ta cất giọng: Việc nà y là việc ác, cậu không sợ cái tâm mình cắn rứt hay sao. Tôi thưa: Hạnh phúc của người nà y lại là bất hạnh của người khác. Người phụ nữ ấy đã có lòng yêu thương con nhưng còn trù trừ lắm. Con đã nghĩ kử¹ rồi, xin thầy cứ mạnh tay giúp đỡ.
Thầy Hạnh không nói gì. Anh Phăng ngồi cạnh mặt tái mét, run rẩy trình bà y. Nhà anh ở thị xã Hòa Bình, buôn quần áo đã nhiửu năm nay. Thế nhưng từ khi ông hà ng xóm bên cạnh mở ra một cửa hiệu bán quần áo thì khách nhà anh chuyển hết qua đó mua. Anh muốn nhử thầy là m bùa cho chủ nhà bên bị là m sao đó thì tùy thầy. Bà Hạnh đưa ra một cuốn sổ nhà u nát, yêu cầu chúng tôi viết tên họ cùng những đối tượng cần bử bùa và o đó. Tôi lật cuốn sổ, đọc thật nhanh những dòng địa chỉ và yêu cầu của những thân chủ trước đó. Nó dường như là một thế giới thu nhử của những mâu thuẫn trong cuộc sống tranh già nh, chụp giật. Rất nhiửu người phụ nữ có chồng ngoại tình, phải tìm đến đây là m bùa cho chồng hồi tâm chuyển ý. Có những địa chỉ ở mãi tận Kon Tum cũng đã để lại bút tích trong cuốn sổ nhử nà y.
Chúng tôi hí hoáy viết bừa ra một tên người với những địa chỉ không có thật. Bà Hạnh cầm sổ, rà từng chữ một sau đó để cuốn sổ phía trước mặt. Bà đến góc nhà , nhúm một ít muối trắng để và o giữa chiếc mâm đồng. Bà đốt hương, vẽ lên trời rồi nhìn chằm chằm và o nhúm muối, đọc một một bà i như thần chú bằng tiếng Mường. Sau khoảng 15phút yểm bùa, bà dúm gói muối ấy lại một mảnh giấy cũ, nói với tôi: Cậu đưa gói muối nà y vử, lén bử và o nồi canh hoặc cốc nước người phụ nữ đó uống. Sau khi người phụ nữ uống phải nước đó sẽ tự nhiên tìm đến với cậu. Bà Hạnh nhìn anh Phăng, giọng rầm rì: Việc của cậu là việc không đơn giản, tôi phải trực tiếp xuống nhà cậu để là m bùa.
Tôi sẽ yểm bùa và o miếng gừng nà y, chính tay tôi sẽ lén vứt miếng gừng nà y và o nhà đó. Họ sẽ tự nhiên bị tai nạn mà tà n tật suốt đời. Trước khi vử, bà Hạnh còn nói thêm: Những việc nà y cũng không chắc mà thà nh được. Nếu người bị bử bùa cao số hơn số tôi thì chịu, các cậu đà nh đi tìm thầy khác vậy. Chúng tôi ậm ừ, vội vã lên xe, nhanh chóng ra khửi ngôi nhà ấy. Khi đã đi được một đoạn đường xa, chân tay tôi vẫn còn run lẩy bẩy.
Cứ gặp thầy bùa, mọi chuyện sẽ được giải quyết
Sáng hôm sau, để chứng thực lời bà Hạnh nói, chúng tôi tìm đến nhà chị Nguyễn Thị Thắm, 44 tuổi ở thị trấn Đà Bắc, huyện Đà Bắc, người được giới thiệu là một ca là m bùa thà nh công của thầy Hạnh. Chị Thắm đi vắng, chỉ có cháu Trần Văn Huy, sinh năm 1990, là con trai chị ở nhà . Khi được biết chúng tôi cũng là những người gặp tai bay vạ gió, muốn tư vấn trước khi tìm gặp thầy bùa, Huy sởi lởi: Nhà em buôn ngô đã hơn chục năm nay, mẹ em bị chủ quán nhà bên bử bùa đến mụ mị con người, chẳng thiết là m ăn, suốt ngà y đi lang thang, tối vử nằm ngoà i hiên ngủ mà nhất định không chịu và o nhà . Gia đình đưa chị Thắm đi khắp các bệnh viện chữa trị, thuốc thang nhưng bệnh tình của chị không hử thuyên giảm.
Không còn cách nà o khác, mọi người đà nh tìm thầy giải bùa. Một thời gian sau, chị Thắm bất ngử khửi bệnh trong sự ngỡ ngà ng của nhiửu người. Huy bật mí: Có vay có trả anh ạ, nhà em đang là m bùa ác, trả đũa lại nhà kia. Khi hửi có kết quả gì chưa thì Huy im thít, không nói gì nữa. Từ câu chuyện nhà chị Thắm, những câu chuyện dân gian vử bùa chú đồn đại từ người nà y qua người khác tạo thà nh một bức mà n bí hiểm đến hãi hùng. Với nhiửu người ở đây, có bất cứ khúc mắc gì trong cuộc sống, họ đửu tìm đến thầy bùa với hy vọng sẽ giải quyết nhanh gọn mà không cần sự giúp đỡ của các cơ quan pháp luật.
![]() |
Đồ nghử là m bùa của bà Hạnh đơn giản hơn tưởng tượng của nhiửu người. |
Nhà ông Lò Văn Luông ở xã Yên Sơn, Đà Bắc có đôi trâu đang thời kử³ tráng kiện. Tối nà o trước khi đi ngủ ông cũng ôm cho chúng một bó rơm khô để trâu ăn. Và o một đêm mưa, kẻ trộm phá cửa chuồng dắt mất đôi trâu quý của ông. Như một phản ứng tự nhiên, ông tìm đến nhà thầy Thượng mãi tận mạn Mường Lát mời lên để phá án cho mình.
Câu chuyện của vợ chồng anh Đinh Văn Đà , sinh năm 1983 ở xóm Riửu Bồ, Tân Minh, Đà Bắc cũng là m cho nhiửu người bán tín, bán nghi vử tác dụng của bùa yêu. Anh Đà và vợ anh là chị Hà Thị ành, sinh năm 1984 đã có một mặt con. Đầu năm 2006, chị ành bà n với chồng rồi xin phép gia đình ra thị xã Hòa Bình là m công nhân xưởng may. Một thời gian sau, ành quay vử bất ngử là m đơn ly dị, nhất quyết đòi chia tay anh Đà để theo một người đà n ông khác bử mặc mọi lời khuyên ngăn của gia đình.
Không còn cách nà o khác, gia đình anh Đà đà nh bí mật nhử thầy gieo bùa cho ành để ành hồi tỉnh mà quay lại với chồng con. Mọi người thở phà o nhẹ nhõm khi và i ngà y sau, ành dính bùa đã tự động xin lỗi bố mẹ chồng, bử ý định cắt đứt với chồng. Hà ng xóm biết chuyện đửu phục lăn lá bùa hiệu nghiệm. Một đồn mười, mười đồn trăm, tiếng tăm của bà Hạnh cứ từ đó lan ra khắp vùng.
Hệ lụy từ những bà i bùa ác
Tiếng tăm của bà còn lan xuống tận Hà Nội, nhiửu người nghe tiếng đem tận xe hơi lên đón bà xuống thủ đô để gieo bùa. Chị Đinh Thị Mí, hà ng xóm của và Hạnh kể: Xe cộ cứ nườm nượp, chẳng biết thực hư thế nà o nhưng người dân ở đây ai cũng sợ bà ấy. Bà Hạnh đi có khi hà ng tuần nhưng không bao giử khóa cửa, cánh nghiện hút dù vật thuốc đến cỡ nà o cũng chẳng dám bén bảng đến đó ăn trộm. Ai mà chẳng sợ chết hả chú. Sự việc không dừng lại ở đó, bởi đến giử, bất cứ có người nà o chết ở Yên Sơn, người ta đửu dấy lên trong lòng một mối nghi ngử: Chẳng biết họ có gây thù chuốc oán với ai không? Không biết là họ chết bệnh hay chết vì bùa?.
Và đến giử, cho dù không nói ra, sự nghi kị, dè chừng nhau vẫn đang hà ng ngà y, hà ng giử âm ỉ trong lòng mỗi người dân nơi đây. Theo lời nhiửu người già ở Yên Sơn, bản người Mường Ao Tá có đến 80% biết là m bùa. Nỗi sợ hãi của nhiửu người là m cho bản ấy trở nên nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Trai gái lớn lên không đi lấy vợ ở nơi khác được vì ai cũng sợ, họ đà nh trai là ng ta lấy gái là ng ta. Hy hữu lắm mới có cô gái vử là m dâu trong bản đó, họ cũng không bao giử được truyửn phép là m bùa với lý do: Dạy cho con dâu để nó hãm hại lại mẹ chồng à . Những ai đã nghe chuyện bùa ngải ở Ao Tá thì không bao giử dám lai vãng và o bản. Họ truyửn tai nhau những câu chuyện hãi hùng như thế nà y: Những người Ao Tá khi mới học là m bùa thường hay thử hiệu quả những lá bùa của mình. Thấy khách lạ, họ cứ thử bừa, không hiệu quả thì thôi, còn hiệu quả thì chỉ có đường chết. Bản đó dần trở nên cô lập giữa mênh mông núi rừng.
Đường và o bản đã khó, nay cà ng khó hơn bởi những gập gửnh ma quái, huyửn bí. Có khi họ bị cô lập bởi chính những lời đồn thổi của những người hiếu kử³, bán tín bán nghi. Họ nể nhau đến độ, trên nương sắn của xã Yên Sơn có một quán nước, tạm gọi là quán nước tự giác. Tự giác bởi quán ấy chủ không phải ngồi coi hà ng và thu tiửn. Ai đến ăn quả chuối, uống cốc nước chè phải nhớ khi đứng dậy móc tiửn bử và o ống nứa. Chẳng ai dám gian lận một đồng bởi ai cũng sợ, lỡ chủ quán tức giận mà gieo cho một quẻ bùa ác thì tà n đời.
Giải mã những lá bùa
Trước những lời đồn đại và thái độ hoang mang của nhiửu người, chúng tôi quyết tâm đi tìm sự thật của những lá bùa. Chúng tôi đã gặp rất nhiửu người đã từng sử dụng bùa và trong số đó, rất ít người khẳng định lá bùa có hiệu nghiệm. Anh Đinh Văn Định, người đã từng đến xin bà Hạnh một lá bùa yêu kể: Tôi đã bử bùa cô gái tôi yêu nhưng phép mà u đã không xảy ra. Tôi hửi lại thì thầy bùa Hạnh trả lời: Người là m bùa không phải lúc nà o cũng thà nh công được!. Khi được hửi vử hiệu quả lá bùa dà nh cho chị ành, bà Xa Thị Xứng là mẹ chồng ành, người trực tiếp đi là m bùa thở dà i thượt: Đồn đại thế thôi chứ không ăn thua gì đâu chú ạ. Con dâu tôi vẫn bử chồng, bử con, đi theo một người đà n ông mãi dưới Hà Tây. Thằng Đà con tôi giữ vợ không được cũng đã lấy vợ khác rồi. Lá bùa tôi là m cho con dâu chẳng có tác dụng nà o cả.
Theo ông Lê Trung Kiên, cán bộ Ban Tôn giáo Chính phủ “ người có nhiửu năm tìm hiểu vử bùa chú của người vùng cao thì, trường hợp hai người không yêu thương, thậm chí ghét nhau, nhưng chỉ bằng một lá bùa mà có thể lập tức yêu nhau say đắm, không rời xa được là không bao giử có. Vử chuyện bùa ác thì ông Kiên cho rằng, có những người vùng cao biết cách là m những loại thuốc để gây bệnh. Khi ghét ai, bằng cách nà o đó, thầy bùa có thể dùng thuốc để tạo ra bệnh qua những nghi thức ma thuật huyửn bí, linh thiêng để che mắt người thường.
Những sự việc đó được thần thánh hóa là do sự linh nghiệm của lá bùa. Đơn cử như trường hợp của bà Xa Thị Tịnh, sinh năm 1960, ở xóm Riửu Bồ, xã Tân Minh, huyện Đà Bắc, chỉ vì tranh chấp 1ha luồng mà bà Xa Thị Huệ (em dâu bà Tịnh) đã nhử thầy bử bùa ác khiến bà Tịnh ốm nặng và chết. Sau cái chết của bà Tịnh, người dân trong xóm núi lại cà ng hoang mang hơn khi thấy ông Thà nh (chồng bà Tịnh) bị thần kinh.
Tuy nhiên, tìm hiểu hồ sơ bệnh án của bà Tịnh tại Bệnh viện Đa khoa Hòa Bình, chúng tôi được biết bà Tịnh nhập viện ngà y 26/12/2006 do bị sốc nhiễm độc nặng. Ngà y 27/12/2006, do bệnh tình quá nặng nên bà Tịnh được đưa vử và mất tại nhà . Điửu nà y chứng minh: Không có lá bùa nà o gây nên cái chết của bà Tịnh cả. Rất nhiửu người nấp sau bức mà n kử³ bí của những lá bùa, giở trò bịp bợm để móc túi những người cả tin, thiếu hiểu biết.
Bà con các dân tộc vùng cao nên cảnh giác với những mánh khóe vì mục đích kiếm tiửn bất chính của các thầy bùa để tránh tiửn mất, tật mang, bị ám ảnh, hoang mang bởi các lá bùa và rồi tự cô lập mình như ở Ao Tá thì đến đời con cháu vẫn không bớt nghèo khổ, cô đơn.