Tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh

Tác giả - tác phẩm - Ngày đăng : 07:43, 08/08/2021

Tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh

1. 
Không phải ngẫu nhiên khi suy niệm về tình yêu quê hương, Lacordaire đã xác quyết: “Phát xuất từ chủng tộc và quốc gia tính, lòng yêu quê hương nảy sinh trong lòng người. Nó là tâm tình sâu thẳm được nuôi dưỡng bằng lịch sử của quá khứ và kỷ niệm của cuộc sống cá nhân. Nơi đó tập trung hết những gì ta đã thấy, đã làm, đã sống từ những ngày lành của ấu thời đến những xao động của thời lão thành và đến những viễn tượng của mồ mả chúng ta”. (1) 

Quả thật, tình yêu quê hương là một tình cảm đặc biệt trong trái tim mỗi người. Quê hương, vì thế, bao giờ cũng là nơi lưu giữ những gì thiêng liêng nhất trong tâm thức con người. Điều này, ta có thể tìm thấy ở tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh mà biểu hiện của tâm thức văn hóa ấy là tình yêu tha thiết đối với làng quê mà thi nhân rất tự hào: 

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
(…)
Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...
(Quê hương)

Quê hương hiện lên trong thơ Tế Hanh bằng những hình ảnh chân mộc, hồn nhiên, không hề có một chút “tô vẻ phấn son”. Sự chân mộc ấy, được kết tinh từ cuộc sống những người nông dân ở “làng chài lưới” quê ông. Vậy mà, khi đọc lên, không ai, lại không cảm thấy nao lòng khi nghĩ về làng quê của mình. Tâm thức văn hóa làng là một sức mạnh tinh thần trong hành trình dựng nước, giữ nước và bảo tồn “dòng sinh mệnh văn hóa” dân tộc. Bởi, nói như Eveque: “Chỉ có tình yêu quê hương có thể làm cho quê hương trường tồn”. (2) Làng quê, vì thế, không chỉ là nơi nuôi ta lớn khôn mà còn là nơi để ta tìm về sau những ngày tháng “phiêu linh” vì sinh kế. 

2.
Cách đây 100 năm, Tế Hanh đã cất tiếng khóc chào đời ở làng Đông Yên, phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi và cách đây 12 năm, ông đã lặng lẽ ra đi sau một thời gian trọng bệnh, trở về ẩn náu trong "mảnh hồn làng" mà ông đã ôm ấp từ những ngày “tuổi hoa niên”. Tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh, vì thế là phẩm tính thơ của ông, có khả năng diệu kỳ trong việc đánh thức tình yêu văn hóa làng quê trong tâm thức người đọc.

Từ góc nhìn địa văn hóa, làng quê của Tế Hanh là vùng sông nước nằm hạ lưu sông Trà Bồng, con sông đã "tắm mát đời tôi”, như ông từng chia sẻ. Đây cũng là nơi tạo nên nguồn cảm hứng để thi nhân sáng tác những bài thơ ẩn chứa trong đó cái “hồn” của tâm thức văn hóa làng mà hình ảnh sông nước quê hương đã trở thành nỗi ám ảnh của vô thức và tâm linh, kết tinh thành những dự phóng sáng tạo, cho ra đời những bài thơ giàu mỹ cảm văn chương, trở thành tượng đài thơ ca khắc họa tâm thức văn hóa làng như: Quê hương, Nhớ con sông quê hương, Trở lại con sông quê hương... Chính vì vậy, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã không tiếc lời ca ngợi: "Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy cả những điều không hình sắc, không thanh âm như "mảnh hồn làng", trên "cánh buồm giương", như tiếng hát của hương đồng quyến rũ con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới những tình cảm ta đã âm thầm trao cho cảnh vật...". (3) Phải chăng cái "thế giới rất gần gũi" trong thơ Tế Hanh mà Hoài Thanh - Hoài Chân đã nói đến trong Thi nhân Việt Nam chính là cái hồn quê da diết kết tinh thành tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh.

Là một thi sĩ vốn sống lặng lẽ, khiêm nhường nên điệu hồn trong thơ Tế Hanh luôn nhẹ nhàng, đằm thắm, đôn hậu, trong trẻo nhưng cũng không kém phần tinh tế và sâu sắc. Tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh, vì thế không bao giờ hiện hữu qua những hình ảnh thơ hoành tráng, mang tính ước lệ như của một số nhà thơ cùng thời mà chỉ là những hình ảnh nhỏ nhoi, gần gũi, thân quen nơi làng quê, ở một vùng cù lao sông nước với đồng ruộng, nương dâu mà ông luôn yêu quí:   

Làng ấy buồn ủ rũ một bên sông
Hồn thương nhớ đắm chìm trong dĩ vãng
(…)
Dưới trời xanh soi biếc cả tâm hồn
Dâu tăm tắp từ đồng ra đến bãi
(Một làng thương nhớ)

Là hình ảnh những "con đường quê" oằn mình trong mưa nắng, chia sẻ những vui buồn, cơ cực của những con người quanh năm lam lũ ở một làng quê xa ánh sáng thị thành:

Tôi con đường nhỏ chạy lang thang
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng
(Lời con đường quê)

Là khu “vườn cũ” chứa đầy kỷ niệm tuổi thơ đọng lại trong tâm cảm thi nhân như một ký ức không mờ phai. Tâm thức văn hóa làng là một tiếng gọi thê thiết luôn hiện hữu để nuôi dưỡng cái hồn quê trong trái tim thi sĩ:  

Cỏ cây im lặng như từ thuở
Đôi lứa xa nhau vẫn đợi chờ
(Vườn cũ)

Có khi là hình ảnh “cái ga tàu" lặng lẽ nơi phố huyện đơn côi, chứng kiến bao cảnh tiễn biệt...
Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vướng víu trong hơi máy
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau.
(Những ngày nghỉ học)

Tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh, còn là hình ảnh ngôi trường bé nhỏ, lặng im, mà khi về thăm, thi nhân không khỏi chạnh lòng…

 Hơn bốn năm trời trở lại đây
Trường ơi! Sao giống tấm thân này?
Mái hư, vách lở buồn xơ xác
Tim héo, hồn đau tủi đọa đày.
(Trường xưa)

Và sự hiện hữu của tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh, có khi chỉ là hình ảnh “Chiếc rổ may” đơn sơ, bình dị nhưng chất chứa trong đó biết bao yêu thương của mẹ:

Mẹ ơi chiếc áo con đã rách
Con biết làm sao trở lại nhà
Để mẹ vá giùm? Con thấy lạnh
Gió lùa nỗi nhớ thấm vào da
(Chiếc rổ may)  

Và tâm thức văn hóa làng, lớn dần theo năm tháng, trở thành một dưỡng chất nuôi sống hồn thơ Tế Hanh, tạo nên một phẩm tính riêng có của thơ ông: chân chất và thành thực, dào dạt và sâu lắng, tha thiết và ngọt ngào, trong trẻo và tinh tế. Vì vậy, dẫu sau này, khi nhà thơ đã bước sang cuộc đời mới, không còn “vướng víu” nhiều với những buồn tủi, cô đơn của một "thời thơ thuở trước" nhưng không vì thế mà tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh bị mất đi, trái lại, nó vẫn ngân lên với những thanh âm mới: da diết và nhói đau. Bởi, đây là thời gian nhà thơ ly hương "xa nhà đi kháng chiến", phải dằn dặt xa quê với cảnh "ngày Bắc đêm Nam" trong hơn hai mươi năm, khi đất nước bị chia cắt. 

Tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh lúc này gắn liền với những hồi ức, những hoài niệm nhưng đó là hoài niệm của một thi nhân đã trải qua một quá trình nghiệm sinh trong đời sống, không phải là hoài niệm của một thi nhân thuở thiếu thời, trong sáng và hồn nhiên nên tâm thức làng trong thơ Tế Hanh lúc này cũng ẩn chứa những suy tư về lẽ sống không chỉ của riêng nhà thơ mà của cả đất nước, dân tộc. Bài thơ Vườn xưa như một sự nối tiếp  “mảnh hồn làng” vốn có từ thuở “hoa niên” của Tế Hanh. 

Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
(Vườn xưa)

Là hình ảnh "con sông quê hương" như một biểu tượng thiêng liêng của tâm thức văn hóa làng, cuồn cuộn chảy trong tâm khảm thi nhân:

Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre.
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè,
Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng.
(Nhớ con sông quê hương)

Và, tâm thức văn hóa làng trong thơ của Tế Hanh còn là "tiếng sóng" xào xạc trong hồn thơ của ông:

Trong giấc ngủ vẫn nghe tiếng sóng
Như tiếng lòng, giục giã những lời thơ.
(Tiếng sóng)

Quả thật, tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh chính là kết tinh của "mảnh hồn làng", và đó là cái làm nên giá trị của thơ ông. "Mảnh hồn làng" ấy đã ôm ấp trong nó không chỉ có sông biển, có con đường quê, toa tàu, vườn xưa, bãi mía xạc xào, với những tiếng lòng thương nhớ mà còn có cả hình ảnh của những con người dân quê lam lũ "Sớm khuya chài lưới bên sông/ Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng" mà kết tinh đẹp đẽ cho biểu tượng của những con người quê hương ở tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh là hình ảnh người mẹ dấu yêu, bên “cái rỗ may”, bên “vườn xưa” với ước mơ: “Mẹ ơi! Ngày gặp mẹ/ Mùa thu hay mùa hè/ Con sẽ là đứa bé/ Đọc sách mẹ nằm nghe” (Nhớ mẹ). 

Bên cạnh hình ảnh người mẹ, tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh, còn là hình ảnh người cha mà thi nhân hết mực kính yêu, qua nỗi nhớ về cái tủ sách của cha mà với nhà thơ "cái hòm nhỏ con con/ với tôi là của quý / thơ đã hoá tâm hồn/ sách đã thành tri kỉ" (Cái tủ sách của cha tôi)... Và tất nhiên, trong sâu thẳm của tâm thức văn hóa làng, không thể thiếu hình ảnh của "cái thuở ban đầu với “cô bạn nhỏ”:

Tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh
Dòng sông Trà Bồng - một hình ảnh thân thuộc của quê hương Quảng Ngãi đã in dấu
trong nhiều sáng tác của nhà thơ Tế Hanh.
Câu chuyện ngây thơ tự thuở nào
Bây giờ nhớ lại ngỡ chiêm bao
Ơi cô bạn nhỏ đâu rồi nhỉ?
Chỉ thấy trong tôi mía xạc xào...
(Mía)

Và những điều làm nên tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh là thế đó. Tất cả chỉ là những   ảnh hình thiên nhiên, con người bình thường trong cuộc sống, nhưng lại ẩn sâu trong tâm cảm người đọc. Thơ Tế Hanh là thơ của tình yêu thương và ông cũng chỉ thành công ở những bài thơ mang nặng tâm tình. Đó là cái duyên, cái độc đáo trong thơ Tế Hanh tạo nên gương mặt riêng của Tế Hanh trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Điều ấy mãi hiện tồn như chính cái "hồn quê" trong thơ ông. Và chính cái hồn quê thấm đẫm chất văn hóa làng thuần Việt này đã trở thành máu thịt nuôi sống ông. Thế nên, dẫu đang sống ở Bắc Kinh “tráng lệ”, thi nhân vẫn thấy hồn quê, tình quê “lai láng chảy” trong tâm thức của mình:

Đêm nay trăng sáng Bắc Kinh
Nhớ trăng Hà Nội thấm tình quê hương
Lòng như cuộn chỉ yêu thương
Quấn theo mỗi một đoạn đường ra đi
(Dặm liễu)

Để rồi như một qui luật tất yếu của tình cảm đối với đất nước, quê hương mà Tế Hanh đã cảm nhận từ sự trải nghiệm của mình: "Anh xa nước nên yêu thêm nước", thi nhân đã mơ thấy "Hàng Châu thành Hà Nội/ Nước Tây Hồ bỗng hóa nước hồ Tây" (Bài thơ tình ở Hàng Châu). 

Thế mới biết cái tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh sâu nặng đến nhường nào! Và nói như nhà thơ Phạm Hổ, trong lời giới thiệu tuyển tập thơ Tế Hanh (1938 - 1988) do Sở Văn hóa và Thông tin Quảng Ngãi, xuất bản năm 1989: "Nếu tôi không nhầm thì thời ấy, (thuở phong trào Thơ mới 1932 - 1945 - THA) khi Xuân Diệu say đắm làm thơ về tình yêu, Lưu Trọng Lư mơ màng làm thơ về sầu mộng, Chế Lan Viên suy tư về sự điêu tàn, Phạm Huy Thông hướng về lịch sử, Huy Cận cảm xúc với đất trời... thì Tế Hanh đã nói đến cái làng quê của mình: Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới... (Quê hương). Tôi con đường nhỏ chạy lang thang, kéo nỗi buồn không dạo khắp làng - chữ "không" sao mà đáng yêu và đáng thương (Lời con đường quê). Và ngay từ đầu, anh đã nói về quê hương của mình với một nỗi buồn lặng lẽ, khá mênh mang... Có lẽ đó là cái "tạng" cái bản chất của anh chăng?” (4) 

3. 
Suy niệm về hành trình sáng tạo thơ của Tế Hanh, đặc biệt là những bài thơ thể hiện tâm thức văn hóa làng, Phạm Hổ có nhận xét đại ý rằng: Có thể nói, Tế Hanh là một con người có tấm lòng gắn bó với quê hương một cách tự nhiên như "trời sinh" nhưng cuộc sống lại dành cho Tế Hanh những điều không may, mà lại rất may cho sự nghiệp làm thơ của mình: “Yêu quê hương nhưng không mấy khi được sống với làng quê!". Phải chăng, chính cái điều tưởng chừng nghịch lý này lại là căn tố hình thành nên tâm thức văn hóa làng trong thơ Tế Hanh và phóng chiếu thành những năng lượng để thi nhân sáng tạo những bài thơ viết về quê hương, đất nước da diết đến như thế!... Những bài thơ không chỉ đi vào sách giáo khoa, để lại những mỹ cảm trong tâm hồn bao thế hệ học trò, cũng như biết bao người đọc mà còn là tài sản vô giá của thơ ca Việt Nam hiện đại. Bởi, nói như Michelet: “Quê hương phải được thấm nhuần trong học đường”. (5) Và điều này đã làm nên hệ giá trị riêng cho thơ Tế Hanh trên thi đàn nước Việt. 

Vì thế, dẫu Tế Hanh đã đi ra "ngoài cõi sống" để trở về với "mảnh hồn làng" mà ông luôn trân quí và nhớ thương nhưng thơ ông, trong đó có những bài thơ chứa đựng tâm thức văn hóa làng vẫn là một giá trị vĩnh hằng trong cuộc sống, vẫn mãi mãi xanh tươi như "Bài ca sự sống"(**) chứa chan tình yêu đất nước, quê hương, lòng trân quí văn hóa dân tộc.

Và, hôm nay trong tận cùng niềm yêu thương và tiếc nhớ, nghĩ về Tế Hanh, người con dấu yêu, một thi tài của quê hương “núi Ấn, sông Trà”, nhưng lại sống và gắn bó gần như cả đời mình với mảnh đất “Thăng Long - Hà Nội”, nhân 100 năm sinh của ông, chúng ta không khỏi ngậm ngùi xa xót, thốt lên những lời thê thiết tự đáy lòng: "Những người muôn năm cũ/ hồn ở đâu bây giờ!?" (***)

PGS.TS Trần Hoài Anh