Lê Văn Thảo dõi theo những số phận lặng lẽ

Truyện - Ngày đăng : 12:13, 29/05/2012

(NHN) Аọc tác phẩm Lê Văn Thảo, không thể trích ra một đoạn văn mẫu để tán tụng, để trầm trồ. Nếu nhìn trên lớp vử chữ nghĩa, rất dễ nao núng kết luận ông không có văn.

Thế nhưng, bình tâm đánh giá lại, thì chất giọng thuần phác Nam bộ của Lê Văn Thảo vẫn tạo ra một thứ văn chương có sức lôi cuốn.

Vậy, văn của Lê Văn Thảo nằm ở đâu?

Văn của Lê Văn Thảo không nằm ở ngôn từ, không nằm ở lý lẽ, và  cũng không nằm ở triết thuyết. Văn của Lê Văn Thảo lặn và o tình tiết, lặn và o nhân vật, lặn và o câu chuyện để rồi khi hữu duyên gặp sự tương tác từ phía độc giả thì lập tức hiển lộ những giá trị thẩm mử¹ có sức lay động và  ám ảnh.

Nhà  văn Lê Văn Thảo.
Nhà  văn Lê Văn Thảo.

Cho nên, Lê Văn Thảo chinh phục nhiửu thế hệ bạn đọc bằng lối kể tự nhiên và  nhẹ nhà ng. Hầu như không thấy sự gắng gượng hay dà n dựng nà o trong tác phẩm của ông. à”ng cứ viết tuần tự và  mạch lạc như chìm nổi cuộc đời vốn thế, như buồn vui con người vốn thế.

Do đó, không khó để nhận ra tác phẩm Lê Văn Thảo tồn tại hai đặc điểm: Thứ nhất, chấm phẩy không theo cấu trúc ngữ pháp mà  theo nhịp điệu văn phong, khi trễ nải, khi dồn dập. Thứ hai, tên truyện khá thật thà , ví dụ Người viết thư thuê, Anh cà  khêu ghé qua là ng, Chuyện nhử tình yêu, Chuyện đời con Mốc, Người Sà i Gòn... chả mấy khi tương xứng với nội dung, giống như cô gái đẹp phải mặc cái áo thô, những ai dị ứng với trang phục mộc mạc thì mất cơ hội chiêm ngườ¡ng dung nhan đằm thắm kia!

Năm 1962, chà ng trai Dương Ngọc Huy 23 tuổi rời khửi giảng đường đại học Sà i Gòn để và o chiến khu, vừa hoạt động cách mạng vừa theo đuổi văn chương với bút danh Lê Văn Thảo.

Những trang viết đầu tiên của Lê Văn Thảo đửu được tập hợp in trong tập Аêm Tháp Mười do Nhà  xuất bản Giải Phóng ấn hà nh năm 1972. Nếu so sánh Аêm Tháp Mười với hà ng loạt tác phẩm sau nà y của ông, không khó hình dung ra một khoảng cách nhất định. Nói cách khác, văn chương của Lê Văn Thảo trưởng thà nh mạnh mẽ từ đầu thập niên 90 của thế kỷ trước và  sung mãn trong suốt 20 năm qua.

Cũng như rất nhiửu nhà  văn đi kháng chiến, sau ngà y đất nước thống nhất, Lê Văn Thảo có chừng 10 năm loay hoay tìm phương pháp sáng tác mới. Thời thanh bình, không có giới tuyến nữa, cuộc sống đa chiửu đa dạng hơn, rối rắm phức tạp hơn. Cuộc chiến chuyển sang từng gia đình, từng con người. Cuộc chiến diễn ra bên trong mỗi con người. Nhà  văn phải thay đổi quan niệm cầm bút, như mệnh lệnh của xã hội, cũng là  mệnh lệnh của trái tim mình.

Thế nhưng, thay đổi cách nà o không đơn giản. Chẳng biết nên xác định Lê Văn Thảo may mắn hay không may mắn, vì cùng thế hệ với ông, nếu Nguyễn Minh Châu biến chuyển rất nhanh, thì và i nhà  văn khác buông bút hẳn. Thật ra, khoảng một thập niên sau cột mốc 1975, Lê Văn Thảo cũng có và i cuốn sách như Bên lở bên bồi, Cử­a sổ mà u xanh, Buổi chiửu và  sáng hôm sau, Ngôi nhà  có hà ng rà o song sắt... nhưng không thà nh công mấy. Chính ông cũng nhận ra những tác phẩm có mặt cũng được mà  không có mặt cũng không ảnh hưởng gì đến dòng chảy văn chương hiện đại, nên sau nà y ông không nhắc đến trong lý lịch nghử nghiệp của mình. 

Truyện ngắn Là ng lở viết tháng 3/1991 đánh dấu sự thay đổi trong sâu thẳm ý thức sáng tạo của Lê Văn Thảo. Trong đó có hình ảnh người lính già  trở lại tìm ngôi nhà  đã che giấu mình lúc khói lử­a nhưng không gặp cảnh cũ tình xưa, mà  chỉ thấy dân là ng bị đất lở mất hết chốn dung thân phải lục tục kéo nhau vử miệt thứ. Họ từ giã xứ ầm à o nước chảy để tới chỗ đồng khô cử cháy với tinh thần lạc quan số trời đã định, không ở được chỗ nà y thì đi chỗ khác. Аâu cũng đất nước mình, chẳng ai để mình chết đói đâu.

Cuộc di cư trong Là ng lở dù hơi đáng tiếc vì gói ghém theo khuôn khổ truyện ngắn hạn hẹp mà  không triển khai thà nh một tiểu thuyết vạm vỡ, nhưng đó cũng chính là  cuộc di cư trong văn chương Lê Văn Thảo. à”ng tự minh định không tiếp tục lên gân lên cốt để viết mãi vử cái kử³ vĩ gánh vác, vử cái oanh liệt đau đớn. à”ng quay sang viết vử những mảnh đời nho nhử, viết vử những mệnh kiếp long đong. Từ sau truyện nà y, tác phẩm Lê Văn Thảo không nhằm thúc giục hà nh động hay nhằm chỉnh huấn tư duy nữa. Văn chương đối với ông gần gũi hơn mà  cũng thăm thẳm hơn, chỉ là  những tiếng gọi lương tri âm thầm và  bửn bỉ.

Аã tìm được con đường riêng cho bản thân, Lê Văn Thảo không mà ng đến tính thời thượng hay tính xu hướng. à”ng huy động mọi cảm quan của mình để thao thiết dõi theo những số phận lặng lẽ. Lần lượt các tác phẩm: à”ng cá hô, Một ngà y và  một đời, Con đường xuyên rừng, Lên núi thả mây... chứng minh được bản lĩnh viết của một nhà  văn có tầm cỡ ở phương Nam.

Lê Văn Thảo đánh thức lòng tin yêu cuộc sống khi phát hiện những con người lầm lũi và  thanh cao. Nhân vật của Lê Văn Thảo hầu hết đửu cơ hà n, đửu thua thiệt, nhưng họ kiên trì gìn giữ cái thiện. Họ không ngừng đối đầu với cái ác, cà ng bị đọa đà y họ cà ng đẹp đẽ, cà ng bị vô vọng họ cà ng vững chãi, cà ng bị cay nghiệt họ cà ng bao dung.

Trong truyện ngắn Tìm chồng cho má, đứa con gái thơ dại nhận ra người mẹ chịu tang đức lang quân đoản phúc nên quen bận quần áo mà u đen mà  trông mỗi ngà y mỗi già  nua héo hắt, và  cô bé quyết tâm kiếm cho người mẹ một chỗ nương tựa... Trong truyện ngắn Аứa con trở vử, người cha già  bôn ba cả đời chắt chiu băng rừng lội suối lần theo dấu vết đứa con hư hửng hết là m trộm cướp đến buôn thần bán thánh, mà  tận phút giây thoi thóp như ngọn đèn sắp tắt vẫn băn khoăn không biết khi bán được vườn ớt có chút tiửn thì mình còn đủ sức đi thăm đứa con đang gá nghĩa với bà  góa đầu xóm không...

Trong truyện ngắn Con mèo, một người cha cứ day dứt vì không thích nuôi mèo nên đã lén đem ném hai chú mèo con và o bóng đêm, để rồi khi đứa con trai gạn hửi bất chợi lại thấy ân hận do thái độ ruồng rẫy sinh linh xung quanh mình... Thong thả những lời kể chậm rãi một cách tỉnh táo, Lê Văn Thảo truyửn sang cho độc giả những xao xuyến khôn nguôi vử lẽ phải, vử tình thương, vử nhân phẩm. 

Hầu như đã rong ruổi khắp đồng bằng sông Cử­u Long để khám phá, để trải nghiệm, để gắn bó, để sáng tác. Thế nhưng, có hai vùng đất mà  Lê Văn Thảo thông thuộc nhất, và  hễ chạm và o thì có thể viết nồng nhiệt nhất là  An Giang và  Cà  Mau.

Với An Giang, khu vực tứ giác Long Xuyên và  khu vực Thất Sơn (Bảy Núi) trở đi trở lại trong nhiửu tác phẩm của Lê Văn Thảo, mà  tiêu biểu phải kể đến Sóng nước Và m Nao. Với Cà  Mau, nơi phù sa lấn biển đến đâu thì người dân trú ngụ đến đó, mang theo cả tiếng chó sủa canh vắng lẫn tiếng gà  gáy bình minh, Lê Văn Thảo đã miêu tả trong nhiửu truyện ngắn và  dừng lại rất lâu ở tiểu thuyết Cơn giông. Nhà  văn Lê Văn Thảo thổ lộ: "Thế hêÌ£ tôi ngay tưÌ€ khi dấn thân vaÌ€o con đươÌ€ng cách maÌ£ng đã hoÌ£c đươÌ£c baÌ€i hoÌ£c đâÌ€u tiên - quâÌ€n chúng lao đôÌ£ng ngheÌ€o khổ không chỉ laÌ€ côÌ£i nguôÌ€n của sức maÌ£nh, của sức chiÌ£u đựng, hy sinh, maÌ€ coÌ€n laÌ€ gốc rễ của đaÌ£o đức". Vì vậy, trong cả hai tác phẩm đầy đặn nhắc trên đửu có những nhân vật lủi thủi bên lử cuộc sống nhưng hà o hiệp và  trượng nghĩa là m sáng cả trang văn, như ông già  vô danh trong Sóng nước Và m Nao hoặc ông già  trăm tuổi trong Cơn giông!

Nhà  văn Lê Văn Thảo có một gia thế không tầm thường. Cha của ông là  chí sĩ Dương Văn Diêu, còn bác của ông là  đại tướng Dương Văn Minh một thời lừng lẫy trên chính trường miửn Nam Việt Nam trước năm 1975. Khi nhà  văn Lê Văn Thảo đang học đại học năm thứ ba tại Sà i Gòn thì người cha lo sợ con trai mình sẽ là m việc cho chế độ Việt Nam Cộng hòa nên cho gọi ông và  em trai (đạo diễn Lê Văn Duy) và o chiến khu. Một quãng đời trai trẻ của Lê Văn Thảo quăng quật và  thấu hiểu lớp học sinh đô thị nao núng và  bế tắc khi chưa nổ ra phong trà o đồng khởi. Cuốn tiểu thuyết mới nhất của ông có tên gọi Những năm tháng nhọc nhằn viết vử giai đoạn 1958-1959 ấy, được Nhà  xuất bản Văn hóa - Văn nghệ ấn hà nh nhân dịp ông được trao giải thưởng Hồ Chí Minh.

Từ Аêm Tháp Mười đến Những năm tháng nhọc nhằn vừa đúng 40 năm để chân dung nhà  văn Lê Văn Thảo phác họa đầy đủ trong là ng văn chương Việt Nam.

Giải thưởng Hồ Chí Minh 2012 trao lĩnh vực văn học gồm có: 7 tác giả với 7 cụm tác phẩm.

Cố nhà  thơ Phạm Tiến Duật với Аường dà i và  những đốm lử­a, Tiếng bom và  tiếng chuông chùa, Vừa là m vừa nghĩ. Hoà ng Tích Chỉ với Em bé Hà  Nội, Mối tình đầu, Thà nh phố lúc rạng đông, Biển gọi... Аinh Trọng Аoà n (Ma Văn Kháng) với Mưa mùa hạ, Côi cút giữa cảnh đời, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn,... Nguyễn Hữu Thỉnh với Thương lượng với thời gian, Trường ca biển... Nguyễn Thế Xương (Hồ Phương) với tiểu thuyết Ngà n dâu, Những cánh rừng lá đử. Chu Bá Bình (Аỗ Chu) với Một loà i chim trên sóng, tập tùy bút Tản mạn trước đèn và  Dương Ngọc Huy (Lê Văn Thảo) với tiểu thuyết Con đường xuyên rừng và  các tuyển tập truyện ngắn.

evan