Tao Đà n đệ nhất danh Thân Nhân trung
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 12:29, 27/06/2012
Theo các sáchĐăng khoa lục, Thân Nhân Trung còn gọi là Thân Trọng Đứcsinh khoảng năm 1418 và mất khoảng năm 1499. à”ng là ngườilà ng Yên Ninh, tục gọi là là ng Nếnh, phủ Bắc Giang (nay là tỉnhBắc Giang). Thân Nhân Trung đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân nămQuang Thuậnthứ 10 đời vua Lê Thánh Tông, tức năm Kỷ Sửu (1469). Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông được cử là m Hà n lâm viện Thị độc, sau đó thăng Hà n lâm viện Thừa chỉ, kiêm Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu. Vua Lê Thánh Tông đánh giá cao tà i năng của Thân Nhân Trung nên đã giao cho ông chấm thi tại các khoa thi Đình nămẤt Mùi(1475), nămCanh Tuất(1490), nămQuý Sửu(1493), nămBính Thìn(1496)... Năm Hồng Đức thứ 14 (1483) vuaLê Thánh Tônggiao cho Thân Nhân Trung, cùng với Quách Đình Bảo,Đà o Cử,Đà m Văn Lễ, bắt đầu soạn bộ sáchThiên Nam dư hạvà Thân chinh ký sự.
Có thể nói, Thân Nhân Trung may mắn được sống, là m quan, hiển danh trong một giai đoạn được coi là thịnh trị nhất triửu đại phong kiến Việt Nam. Thời kì vua Lê Thánh Tông trị vì được coi là thời kì vua sáng tôi hiửn, nhà bắc nhà nam đửu no mặc, lừng lẫy cùng ca khúc thái bình. Các sử gia thường tán thưởng vử thời đại Lê Thánh Tông là một xã hội thái bình thịnh trị, một quốc gia văn minh hùng cường, một chính sách triệu dân vỗ yên, trăm việc chấn chỉnh, văn giáo rộng ban, vũ công đại định.
Thân Nhân Trung - Thà nh viên quan trọng của Hội Tao Đà n Tao Đà n là tên một hội thơ, một cuộc xướng họa thơ ở cung đình thà nh Thăng Long và o cuối thế kỉ XV giữa nhà vua và các bử tôi tà i giửi. Sách Đại Việt sử kí toà n thư chép rằng: Vua Lê Thánh Tông thấy hai năm Quý Sửu, Giáp Dần thóc lúa được mùa, đặt các bà i ca vịnh để ghi điửm là nh. Thà nh phần của hội Tao Đà n gồm, vua Lê Thánh Tông là Tao Đà n nguyên suý, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận là Tao Đà n phó nguyên suý, Lương Thế Vinh, Thái Thuận được gọi là Tao Đà n sái phu. Hội gồm 28 thà nh viên gọi là Tao Đà n nhị thập bát tú (Hai mươi tám vì sao sáng trong hội Tao Đà n), những vị nà y đửu có học vị Tiến sĩ trở lên. Hoạt động của hội là nhà vua đích thân là m 9 bà i thơ nói vử đạo vua tôi, vử chính trị thời cuộc, vử cuộc sống của muôn dân... Sau đó các quần thần trong Nhị thập bát tú họa lại, tất cả kể đến hơn hai trăm bà i, tập hợp thà nh tập Quử³nh uyển cửu ca (chín khúc ca ở vườn quử³nh).
Hội Tao Đà n ra đời là sự thăng hoa của những hoạt động văn chương trong thời kì cực thịnh của xã hội phong kiến Việt Nam.
Trong số Nhị thập bát tú, Thân Nhân Trung được coi là Tao Đà n đệ nhất danh, luôn được phụng họa thơ của nhà vua. Thời đó, do phong khí chuộng văn của thời đại mà những văn thần tà i năng, lời lời thốt ra như nhả ngọc, như hoa gấm, đứng chật bệ rồng. Vậy mà trong số đó, Thân Nhân Trung được khen là Đệ nhất thì quả thật đáng kính nể.
Thơ phụng hoạ của ông chủ yếu là ca ngợi thánh quân, giãi bà i tấm lòng muốn báo đáp ơn vua. Trong bà i phụng họa bà i Vua sáng tôi hiửn, ông viết rằng: Thần công thánh đức khó nên danh Tiếp nối cơ đồ tập đại thà nh Rực rỡ Chu văn nêu lễ nhạc Oai hùng à‚n võ trọng nhung binh Cà ng tăng vẻ đẹp như mây giáng Thêm tử bử tôi thảy hiển vinh Ngửa đọc thơ vua vui xiết kể Nguyện đem tấc dạ giúp thanh bình. Trong thơ phụng hoạ của ông có cảnh yên ả thanh bình của một đất nước đang thịnh trị, có cảnh thư thái của một là ng quê trù phú: Gà chó xóm thôn bặt tiếng ồn Bên bử gió thổi vẻ hân hoan Chùa quê buổi sớm chuông ngân tiếng Thuyửn biển ban chiửu sóng dập dửn Ruộng lúa thừa mưa ngà n khoảnh tốt Đất trời mây tạnh dặm xa tuôn Dân yên vật thịnh mùa xuân đẹp Thuyửn ngự bên cầu bách lái buông. (Phụng họa bà i Nghỉ bên sông Giao Thủy - Lâm Giang dịch thơ)
Trong những người tham gia và o hội Tao Đà n phải chăng Thân Nhân Trung là người xứng ý nhất nên ông rất hay được cận kử xướng họa cùng nhà vua trong nhiửu chuyến tuần du. Sử còn ghi: Ngà y 6 tháng 11 năm Canh Dần, Hồng Đức nguyên niên (1470), theo Lê Thánh Tông tây chinh. Ngà y 16 tháng 2 năm Tân Mão năm Hồng Đức thứ hai (1471) cùng nhà vua xướng hoạ bà i Tư gia tướng sĩ (Tướng sĩ nhớ nhà ). Ngà y 27 tháng ấy, lại cùng vua xướng hoạ bà i Lục Vân động (Động Lục Vân). Ngà y 6 tháng 2 năm Hồng Đức thứ hai (1491) Thân Nhân Trung theo thuyửn vua đi đến Lam Sơn thăm điện Thánh Tổ... Ngà y 27 tháng ấy lại cùng vua họa thơ ở Kiến Thụy đường...
Những chuyến đi cùng nhà vua như thế đã cho ra đời những bà i thơ xướng họa mang dấu ấn một thời. Qua đó có thể khẳng định được uy tín vử văn chương của ông trong đám văn thần thời đó, vì vậy ông mới có thể được giao trọng trách chấp bút cho các tác phẩm quan trọng của nhà nước, đó là soạn những văn bia đử tên tiến sĩ “ đây là những tác phẩm phản ánh bộ mặt của một triửu đại thịnh trị trong lịch sử nước nhà .
Soạn văn bia Tiến sĩ đầu tiên dựng ở Văn miếu Năm Hồng Đức thứ 15 (1484), Thân Nhân Trung cùng các quan bộ Lễ tiến hà nh viết các bà i văn bia để khắc và o cácbia tiến sĩđầu tiên của Việt Nam, ghi lại mục đích của mỗi khoa thi nho học, hoà n cảnh lịch sử các khoa thi được khắc bia, hoà n cảnh ra đời của văn bia, và quan trọng nhất là đử danh các vị Tiến sĩ đỗ đại khoa trong khoa thi đó.
Với trọng trách quan trọng nà y, Thân Nhân Trung được tín nhiệm giao soạn bà i văn cho bia tiến sĩ đầu tiên khoa Nhâm Tuất (1442). Khi viết vử mục đích các khoa thinho học, trong bà i văn bia, Thân Nhân Trung đã nêu bật được tầm quan trọng của giáo dục nhân tà i đối với việc hưng thịnh của đất nước: ...Hiửn tà i là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nà o không coi việc giáo dục nhân tà i, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia là m công việc cần thiết... (Bà i ký đử tên Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3-1442).
Với tư cách là một nhà chính trị, Thân Nhân Trung đã dốc hết sức cổ súy cho sự nghiệp phát triển giáo dục và đà o tạo nhân tà i nước nhà . à”ng đã nhấn mạnh vai trò của nhân tà i trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước cũng như chỉ rõ trách nhiệm của kẻ sĩ đã được triửu đình ban ân: Thế thì kẻ sĩ được nêu tên ở tấm bia đá nà y thật vinh hạnh biết bao. Và cố nhiên họ nên lấy trung nghĩa mà rèn luyện, cho danh thực hợp nhau, thực hà nh điửu sở học, là m nên sự nghiệp vĩ đại, là m nên sự nghiệp sáng ngời, khiến cho mọi người đời sau kính trọng thanh danh, mến mộ khí tiết, may ra trên không phụ lòng nhân dườ¡ng dục của triửu đình, dưới không phụ công học tập thường nhật, thì việc khắc tên và o tấm bia nà y sẽ muôn thuở bất hủ vậy... (Bà i ký đử tên tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487).
Tâm huyết và thà nh công của Thân Nhân Trung trong lĩnh vực giáo dục rất nổi bật. Những bà i văn bia do Thân Nhân Trung soạn lời lẽ sang trọng, ý tứ lại sâu xa. Với tư tưởng coi trọng người hiửn tà i, ông hiểu rất rõ,nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn,và đó cũng là mục đích cao cả của việc đà o tạo nhân tà i cho đất nước.
Những sáng tác của ông để lại không nhiửu. Ngoà i những bà i thơ phụng họa, những bà i ký khắc trên bia, thì có lẽ thơ văn của ông mãi mãi gắn liửn với những sáng tác của Lê Thánh Tông và hội Tao Đà n, tạo nên một bộ phận không thể tách rời, là m nên những giá trị sống cùng mọi thời đại.