Viết chữ đẹp đã lỗi thời?
Tin tức - Ngày đăng : 21:47, 26/11/2012
Theo GS Nguyễn Ngọc Lanh, chuyện học sinh cả lớp, cả trường, cả huyện... phải rầm rộ đi thi chữ đẹp thể hiện triết lý rất lỗi thời. Tại sao trẻ em Việt Nam cứ phải vung phí tuổi xuân và o những cuộc đua - tuy rất bổ ích cho thà nh tích của người có quyửn, nhưng - vô bổ đối với sự nghiệp tương lai của chính các em?
Dưới đây là phân tích của ông. VietNamNet mong nhận được các ý kiến trao đổi. Thư gửi vử: bangiaoduc@vietnamnet.vn.
Các bà i luyện và các bà i thi cứ na ná như nhau vử nét chữ |
Không có chữ, phải đi mượn; lại mượn phải thứ chữ rất khó viết
Ba ngà n năm không có chữ, tới thiên niên kỷ thứ tư, tổ tiên ta đà nh chấp nhận chữ Hán.
Khổ! Đây là thứ chữ tượng hình; viết chữ gần như vẽ chữ. Sự sáng tạo chung quy chỉ là thay đổi cách đọc chữ Hán cho lọt tai người Việt - nghĩa là tạo ra các từ Hán-Việt. Viết như nhau, Trung Quốc đọc là zẩn mỉn còn ta đọc là nhân dân. Tới nay, các từ Hán-Việt chiếm tới quá bán hoặc 2/3 kho từ vựng của ta. Vui hay buồn?
Cứ bảo chữ Hán thịnh hà nh suốt ngà n năm trước. Kử³ thực, nó độc tôn, chứ thịnh hà nh cái nỗi gì mà chỉ 1% dân biết chữ?
Nói khác, tới 99% dân ta không đọc nổi, mà nghe người khác đọc hộ cũng không hiểu.
Hẳn là , 99% các cụ ta thời xưa nghe đọc câu Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện (học không chán, dạy người không mửi) và Tiên giác giác hậu giác (người biết trước dạy cho người biết sau) cũng giống như vịt nghe sấm?
Đã thế, dùng chữ Hán không thể ghi lại kho tà ng văn hóa dân gian do người Việt sáng tạo. Lưu giữ bằng cách truyửn miệng thì là m sao tránh khửi thất thoát lớn?
Giải quyết bằng sáng tạo ra chữ Nôm: Vẫn rơi và o lẩn quẩn!
Chữ Nôm ghi lại tiếng Việt (ca dao, tục ngữ, văn thơ Việt). Nghĩa là khi đọc văn Nôm, người Việt mù chữ vẫn hiểu. Tổ tiên ta cà ng thêm hứng khởi sáng tác bằng chữ Nôm. Chính nhử chữ Nôm mà truyện Kiửu ra đời...
Nhưng đó là cái vòng lẩn quẩn. Vì cách phổ biến nhất để tạo ra chữ Nôm là ghép hai chữ Hán lại là m một: Trong đó, một chữ dùng để chỉ nghĩa, còn chữ thứ hai để chỉ âm.
Ví dụ, muốn viết chữ tay thì các cụ ghép chữ thủ (nghĩa là tay) với chữ tây (phương tây, phương Đoà i). Người đọc phải... suy hoặc đoán, để mà đọc thà nh tay. Thật phiửn, cứ phải giửi chữ Hán (và giửi đoán) mới học được, đọc và viết được chữ Nôm. Số người biết chữ Hán vẫn chỉ 1%; biết Nôm cà ng dưới 1%.
Văn hay phải kèm chữ tốt: Chuyện đương nhiên thời xưa
Văn hay, chữ tốt là câu cửa miệng của người xưa nói vử thà nh công trong nghiệp học.
Thời xưa, học vấn của một người được đánh giá ở văn. Nhưng văn chứa trong... bụng (các cụ nghĩ thế), dù hay đến mấy vẫn phải thể hiện bằng chữ thì người khác (ví dụ, người chấm thi) mới đánh giá được. Do vậy văn hay phải có cả chữ tốt.
Luyện chữ tốt thời xưa gian khổ gấp trăm (hay ngà n) luyện chữ quốc ngữ thời nay.
Viết chữ gần như vẽ chữ, thiếu hay thừa một nét là thà nh vô nghĩa hoặc khác nghĩa (sai một ly đi một dăm). Hà ng ngang, hà ng dọc cứ đửu tăm tắp. Tập viết chữ Hán là nỗi vất vả và sợ hãi của học trò xưa, vì đây là chính giai đoạn rất dễ bị ăn roi của thầy.
Nhưng trên mức chữ tốt còn có mức chữ đẹp (cực tốt) nữa. Nhưng đó là chuyện năng khiếu, hoa tay..., chỉ dà nh cho số ít người.
Thời ấy, chỉ cần văn hay, chữ tốt là đủ để công thà nh danh toại. Thời nay, nếu chỉ hà nh văn trơn tru và viết chữ đẹp - tuy vẫn là ưu điểm - nhưng chưa nói được gì nhiửu.
Phúc thay! Từ năm 1915, nước ta đã thay chữ Hán bằng chữ quốc ngữ. Để thanh toán mù chữ, thuở xưa cần 3 năm; thì thời nay chỉ cần 3 tháng. Để luyện chữ tốt cũng vậy.
Thứ bậc giữa văn hay với chữ tốt
Một cách vắn tắt, là m văn là việc của cái đầu, viết chữ do cái tay.
- Khi vua muốn ban ra một chiếu chỉ, một đạo sắc phong, một lời khuyến dụ... thì các vị văn hay sẽ lĩnh ý và thảo ra văn bản. Họ phải dùng lời văn thích hợp và viết bằng thứ chữ tốt để vua duyệt. Sau đó, sẽ có những người chữ cực tốt sao chép thà nh nhiửu bản để gửi đi các nơi. Như vậy, người văn hay là quan, gần gũi vua; còn người chữ đẹp chỉ là những thư lại, có khi cả đời không thấy long nhan.
Ở cấp địa phương (đạo, trấn, tỉnh, huyện) vị đứng đầu chính quyửn vẫn là người văn hay, còn trong số phụ tá có và i người chữ tốt (lo việc sổ sách, sao chép văn thư...).
Dẫu sao, thời xưa người chữ tốt (nhất là chữ đẹp) vẫn có việc là m phù hợp. Còn thời nay, khó kiếm kế sinh nhai thuần túy chỉ bằng chữ đẹp. Bởi vì, máy đã thay thế. Người viết đẹp nhất cả nước cũng chỉ đẹp như chữ đánh máy, hoặc như chữ sách in(!).
Thi chữ đẹp
Thời nay, máy đã thay thế ngà y cà ng vượt trội sự khéo léo của bà n tay. Tuy nhiên, vẫn nên tổ chức thi chữ đẹp, để đáp ứng nguyện vọng của những người có năng khiếu muốn tranh tà i - giống như nhiửu cuộc thi năng khiếu khác.
Phải nói thêm: Viết chữ đẹp, thêm óc sáng tạo, tâm hồn nghệ sĩ... vẫn có thể sống tốt bằng nghử thư pháp. Thực tế, sản phẩm của các nhà Thư Pháp ở ta thường là để tặng.
Còn chuyện học sinh cả lớp, cả trường, cả huyện... phải rầm rộ đi thi chữ đẹp, thì đấy là chuyện khác. Nó thể hiện một triết lý rất lỗi thời (mà người có quyửn cứ tự ý áp đặt, dưới danh nghĩa nà o đó - ví dụ, để rèn nết người - cho đại trà và i chục triệu đứa trẻ), nguy hiểm hơn cả bệnh thà nh tích, bệnh phong trà o.
Số người dựa và o chữ tốt để sinh nhai cứ hiếm dần. Vậy, các bậc cha mẹ thời nay nếu có ý định đầu tư tiửn của và công sức cho con cái vử chữ tốt cần suy nghĩ cho kử¹.
Rèn chữ
- Thời xưa, không rèn chữ sẽ thiệt thòi nhãn tiửn. Vì đó là thứ chữ khó viết và dễ sai sót dẫn đến sai nghĩa. Những người văn hay thì địa vị xã hội không thấp. Họ phải thảo ra những văn bản chữ tốt, để cho đám chữ cực tốt khửi nhầm lẫn khi sao chép.
Nếu họ là các bậc uyên thâm, họ còn sáng tác (Lê Hữu Trác, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Nguyễn Du...) và có cả một đội ngũ chữ tốt sao chép thà nh hà ng trăm cuốn sách. Cho tới khi con người biết khắc chữ và o tấm ván để in ra hà ng loạt thì bản gốc cà ng phải viết bằng thứ chữ tốt để thợ khác khửi nhầm lẫn (rất khó sửa).
- Thời cận đại, khi đã có chữ quốc ngữ, có máy chữ và máy in, các vị Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... vẫn phải rèn chữ để bản thảo đỡ tốn giấy (giấy rất đắt, phải viết bằng thứ chữ nhử li ti) và để thư ký gõ máy chữ khửi nhầm lẫn; và để thợ in đỡ mắc lỗi khi xếp chữ. Điửu khác xưa: người đánh máy chữ và thợ xếp chữ in không cần chữ tốt nữa. Các nhà văn thế hệ sau là m việc lúc giao thời, nhưng thích nghi rất nhanh: từ viết tay, họ chuyển sang dùng bà n phím.
Chữ đẹp đến mức nà o là đủ?
Đã đi học thì phải tập viết. Cứ cho rằng trong tương lai không xa, mỗi học sinh sẽ sở hữu một máy tính gọn nhẹ (mang theo tới lớp) trong chứa sẵn toà n bộ sách giáo khoa và tà i liệu tham khảo; cứ cho rằng họ sẽ được dạy sử dụng bà n phím thà nh thạo tới mức gõ chữ nhanh hơn viết (quả vậy đấy: gõ một chữ trên bà n phím để nó hiện ra mà n hình vẫn nhanh hơn viết chữ đó ra giấy)... Nhưng, dứt khoát, họ vẫn phải tập viết. Vì trong cuộc đời, có lúc họ phải viết chứ không chỉ trông cậy và o máy vi tính mà xong.
Vậy, cần tập viết tới mức nà o? Chẳng cần cãi nhau cho mất thì giử; mà cứ xem người ta đã là m.
1) Dứt khoát học sinh phải viết đủ nét, đủ dấu, để ai cũng đọc được bản viết của mình. Họ viết ra là để người khác đọc (trước hết là để trả bà i cho thầy, cô; sau nà y là lá đơn xin việc mà nơi tuyển chọn quy định tự viết, tử giấy biên nhận, đăng ký bút tích với cơ quan quản lý...). Còn việc ghi chép cho riêng mình, họ tha hồ tự ghi, tự hiểu.
2) Họ phải tập viết nhanh, vì thời công nghiệp đòi hửi tiết kiệm thời gian.
3) Họ chỉ viết ngắn. Nếu cần viết dà i, đã có vi tính và máy in.
Thế là đủ.
Nhưng khi cần viết nhanh, nét chữ lại trở vử kiểu vốn có |
Thời gian lẽ ra dà nh cho tập viết như hiện nay (nhất là để thi chữ đẹp) liệu có nên dùng để dạy các cháu sử dụng bà n phím? Nhiửu phụ huynh đã nhận ra lợi hại.
- Điửu không lạ, những bà i được giải chữ đẹp đửu có nét chữ na ná như nhau, vì cùng được dạy theo một mẫu, mặc dù internet đã miễn phí rất nhiửu mẫu chữ cực đẹp.
- Điửu không lạ nữa: Khi phải viết nhanh, những người được giải lại trở vử cách viết cố hữu của mình. Chữ là người. Chính do vậy, ta mới có thể đoán tính cách con người theo nét chữ. Rút ra: nét chữ (để thi) chẳng liên quan gì tới nết người. Chớ ngộ nhận.
Tại sao trẻ em Việt Nam cứ phải vung phí tuổi xuân và o những cuộc đua - tuy rất bổ ích cho thà nh tích của người có quyửn, nhưng - vô bổ đối với sự nghiệp tương lai của chính các em? Mà tuổi thọ của dân ta chưa phải quá cao so với các dân tộc khác, để các cháu tiêu tốn tuổi trẻ và o việc nà y.
GS Nguyễn Ngọc Lanh