Bài 2: Bảo vệ miền Bắc Xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam
Nhiếp ảnh - Ngày đăng : 16:18, 17/09/2021
Ngày 01/01/1955, Đại đội cứu hỏa Hà Nội nhận nhiệm vụ cử một tiểu đội tham gia bảo vệ lễ đài Ba Đình trong buổi mít tinh của nhân dân Thủ đô chào mừng Đảng và Chính phủ sau 9 năm kháng chiến trở về Thủ đô.
Bài 1: Tổ chức tiền thân của lực lượng Cảnh sát PCCC
Cũng trong ngày này, lực lượng Cảnh sát PCCC vinh dự được Bác Hồ thân mật bắt tay từng người một và Người đã có lời chúc Tết đối với lực lượng Cảnh sát PCCC tham gia bảo vệ buổi lễ. Ngày 27/6/1955, Bộ Công an có Chỉ thị 479/TA-TF hướng dẫn việc phòng hỏa, cứu hỏa. Trong đó quy định đây là nhiệm vụ của mọi người dân nhằm: Bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; bảo vệ các công trình kiến thiết, các cơ sở kinh tế quốc gia; ngăn ngừa hành vi phản cách mạng và phá hoại của kẻ địch.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục hoàn thành Cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Lực lượng Công an có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội. Trong đó có nhiệm vụ bảo đảm an toàn PCCC… Để thực hiện công tác phòng cháy và chữa cháy có hiệu quả, ngày 30/12/1955, Chính phủ có Văn bản số 3366/CP về việc giao Bộ Công an quản lý công tác phòng hỏa, cứu hỏa và tiếp nhận xe và máy bơm chữa cháy do Liên Xô viện trợ.
Ngày 27/3/1956, Bộ Công an có Chỉ thị số 347/TA về việc xây dựng lực lượng PCCC chuyên nghiệp ở miền Bắc. Ngày 01/6/1956 Bộ Công an có quyết định số 1175/V2 quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ, cơ cấu và chế độ làm việc của đội cứu hỏa. Trong đó còn quy định rõ đội cứu hỏa thành phố, thị xã là một bộ phận của Cảnh sát nhân dân.
Thực hiện quy định của Chính phủ và Chỉ thị của Bộ Công an, cuối năm 1956, 11 đơn vị phòng hỏa, cứu hỏa của các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Quảng, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nam, Hải Dương, Lạng Sơn, Phú Thọ, Thái Nguyên lần lượt được thành lập; lực lượng cứu hỏa bắt đầu tập luyện và tập huấn nghiệp vụ PCCC do chuyên gia Liên Xô hướng dẫn.
Đến năm 1958 Bộ Công an có Quyết định thành lập Phòng phòng hỏa, cứu hỏa (P8) thuộc Vụ Trị an dân cảnh (V10) của Bộ Công an.
Tháng 7 năm 1959, Bộ Công an đã đưa đoàn học sinh đầu tiên đi học tại Trường Trung học PCCC Lênin Grat - Liên Xô gồm 6 đồng chí. Đến tháng 9/1963 lớp cán bộ đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp ra trường và về nước nhận công tác. Giai đoạn này, Bộ Công an đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo chuyên ngành về PCCC, trong đó đã tập trung cử người đi đào tạo ở các nước có nền khoa học kỹ thuật PCCC tiên tiến như: Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức... Cụ thể: 1962 đến năm 1991 đã có 116 đồng chí được đào tạo tại Trường Đại học PCCC Matxcơva – Liên Xô, 61 đồng chí được đào tạo tại Trường Trung cấp Lênin Grat, 30 đồng chí được đào tạo tại Trường Đại học kỹ sư thực hành PCCC ở Cộng hòa dân chủ Đức. Đặc biệt có 16 đồng chí đã bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sỹ khoa học PCCC ở Liên Xô.
Trước yêu cầu phát triển kinh tế ở miền Bắc (kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961-1965). Bộ Công an giao cho Vụ Trị an dân cảnh (V10) xây dựng dự thảo một văn bản pháp quy về PCCC để đề nghị Nhà nước ban hành. Tham gia xây dựng văn bản này có đồng chí Nguyễn Tăng Điện, sau này đồng chí là Cục trưởng Cục PCCC, rồi được Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng giữ chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hậu cần, Bộ Công an.
Đến ngày 12/8/1961, bản dự thảo Pháp lệnh được Hội đồng Chính phủ trình lên Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đến ngày 04/10/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 53/LCT của Chủ tịch nước công bố “Pháp lệnh quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác PCCC” (gọi tắt là Pháp lệnh PCCC). Trong đó tại Điều 3 quy định: Bộ Nội vụ tổ chức ra Cục Phòng cháy và chữa cháy. Sự kiện này đánh dấu sự thay đổi về chất trong công tác PCCC của Nhà nước, đồng thời mở ra một trang mới trong lịch sử của lực lượng Cảnh sát PCCC.
Một tình huống đáng lưu ý là tên gọi của dự thảo Pháp lệnh PCCC qua từng bước có sự thay đổi: Đầu tiên Bộ Công an dự thảo là “Luật phòng hỏa, cứu hỏa Việt Nam”; khi trình Văn phòng Nội chính, Phủ Thủ tướng sửa là “Pháp lệnh quy định việc giám sát của Nhà nước đối với công tác phòng hỏa, cứu hỏa”; khi trình Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa hai chữ “giám sát” thành hai chữ “quản lý”; khi trình Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên nội dung của tên gọi, chỉ thay đổi cụm từ “phòng hỏa, cứu hỏa” bằng cụm từ “phòng cháy và chữa cháy” cho dễ hiểu hơn. Người nói vui: Xảy ra cháy thì phải “chữa” chứ sao lại “cứu”. Như vậy, có thể khẳng định sự quan tâm của Bác Hồ và cơ quan lập pháp đối với công tác PCCC trong giai đoạn này.
Tiếp đó ngày 28/12/1961, Chính phủ ra Nghị định số 220/CP để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác PCCC. Ngày 29/12/1961, Chính phủ ra Nghị định 221/CP để hướng dẫn công tác PCCC rừng.
Ở các địa phương miền Bắc, các đơn vị phòng cháy, chữa cháy: Hà Bắc, Ninh Bình, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Hà Tĩnh… lần lượt được thành lập.
Trước âm mưu của đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc bằng không quân và hải quân, năm 1963, Chính phủ ra Nghị định 112/CP quy định về công tác phòng không sơ tán và tổ chức công tác chữa cháy do địch gây ra. Ngay sau đó, Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành Mệnh lệnh về công tác bảo vệ phòng không sơ tán, bảo vệ an ninh trật tự trong tình hình mới. Thực hiện Mệnh lệnh của Bộ trưởng, lực lượng Cảnh sát PCCC đã khẩn trương hướng dẫn các cơ quan tăng cường công tác PCCC, quản lý vật liệu nổ, các chất dễ cháy, chuẩn bị phương án và các phương tiện sẵn sàng chữa cháy khi tình huống xấu xảy ra.
Nghị quyết Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 18 đã nêu rõ: Nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát PCCC là: PCCC các cơ sở kinh tế quan trọng, các mặt hàng thiết yếu, các khu vực đông dân cư; chuẩn bị tốt kế hoạch phòng không nhân dân, chữa cháy kịp thời các điểm cháy do địch gây ra. Trên cơ sở đó, lực lượng Cảnh sát PCCC đã được củng cố tổ chức, tăng cường lực lượng, bố trí lại các đội Cảnh sát PCCC, lập các phương án chủ động chữa cháy do máy bay địch gây ra. Chính vì vậy, trong trận đánh phá đầu tiên của địch ra miền Bắc vào ngày 05/8/1964, ta đã hạn chế được rất nhiều thiệt hại về người và tài sản.
(Còn nữa)...