Là ng quân y trong lòng Hà  Nội

Chuyển động Hà Nội - Ngày đăng : 20:52, 21/04/2015

NHN Online - Còn nhớ tại Trại pháo năm 1967, tổ cấp cứu thấy một chiến sĩ còn nguyên vẹn. Trên đường đưa vử, trước tình trạng nguy kịch khẩn cấp, chúng tôi đã rạch khe liên xườn, luồn tay và o bóp tim trực tiếp để kích tim. Rất tiếc không thể cứu được.... Аó là  kỷ niệm mà  ông Nguyễn Hữu Phúc (68 tuổi), không bao giử quên được khi kể vử những ngà y là m Trung đội phó, giáo viên trợ giáo lớp y tá của Аội điửu trị 12, Cục quân y trong những năm chiến tranh chống Mử¹ ác liệt.

Dầm mình dưới mưa bom, bão đạn

à”ng Phúc kể, năm 1965, Mử¹ bắt đầu cuộc chiến tranh leo thang, phá hoại ở miửn Bắc. Chúng phá hoại sân bay, nhà  ga, cầu Аuống, cầu Long Biên, các kho tà ng ở Аức Giang, Yên Viên, các trục giao thông chính giữa Thủ đô đi các tỉnh nhằm chặn phá sự chi viện cho miửn Nam. Khu vực nà y hứng chịu gần 40% tổng số bom ném và o TP Hà  Nội nên rất khó khăn khi đưa thương binh và o thà nh phố. Cấp trên nhận thấy việc đặt một đội điửu trị ở Gia Lâm là  cần thiết và  quan trọng.

à”ng Nguyễn Như Nhạ (đứng cuối) cùng đội cấp cứu (Ảnh chụp lại)

Ngà y 28-8-1965, Аội Аiửu trị 12 gồm các y, bác sĩ tách từ Bệnh viện Quân y 108 được thà nh lập, với nhiệm vụ thu dung, điửu trị toà n bộ thương binh phía Аông Bắc, sà ng lọc trường hợp phức tạp đưa và o bệnh viện tuyến trong. Ngay sau đó, Аội nhận lệnh xuất phát đến đóng quân tại khu vực xã Hội Xá, huyện Gia Lâm, Hà  Nội (nay là  phường Phúc Lợi, quận Long Biên) chỉ với 39 đồng chí với 2 chuyến xe tải chở các phương tiện trang bị còn thô sơ, thiếu thốn.

Những ngà y đầu, Bệnh viện Quân y 108 đã cử­ 3 đồng chí trong Аảng ủy vử lãnh đạo, đồng thời cũng là  chỉ huy đơn vị, đó là  Thượng úy Nguyễn Quý Nghĩ, Thượng úy Lê Hoà ng Oanh và  Đại úy Triệu Quang Vy. Аể khắc phục những khó khăn, cấp trên đã chú trọng công tác học tập, huấn luyện và  chỉ sau 8 khóa học, dưới sự giúp đỡ nhiệt tình của các bệnh viện chuyên khoa đã đà o tạo được gần 800 cán bộ có trình độ cấp cứu nội, ngoại khoa..., ông Phúc kể.

Do yêu cầu của tuyến phục vụ là  hoà n thà nh cấp cứu, điửu trị nâng cao chuyên môn nghiệp vụ chi viện chiến trường, Аội điửu trị 12 phân tán chia là m 6 bộ phận kéo dà i 30-40km, nằm ở thôn Vo Trung, Thượng Аồng và  lớp y tá nằm ở thôn Hội Xá. Phòng khám rải rác nhiửu nơi, tới tận thôn Cam, xã Cổ Bi. Hà ng trăm nhà  dân đã hiến nhà , cho mượn đất để là m lán điửu trị thương binh.

Thoáng một chút buồn, ông Phúc nuối tiếc cho biết tất cả những hiện vật có giá trị lịch sử­ như máy chụp X Quang đặt ở đình Vo Trung và  đặc biệt là  một hầm mổ đóng ở chùa Thượng Аồng, thôn Thượng Аồng, phải dùng đèn măng-xông, đạp xe để phát điện, đến nay đửu không lưu giữ được.

Lấy tiếng súng là m lệnh xuất phát, đội quân cấp cứu chúng tôi băng mình ra trận địa còn nóng bửng bom đạn để tìm kiếm thương binh. Với tinh thần quyết chiến quyết thắng, đội đã cấp cứu được hà ng trăm thương binh..., chà ng Hạ sĩ 20 tuổi Nguyễn Như Nhạ của 47 năm vử trước vẫn còn nhớ như in những năm tháng ác liệt là m nhiệm vụ ở tổ cấp cứu, Аội Аiửu trị 12.

Cầm trên tay kỷ vật duy nhất là  tấm ảnh đội cấp cứu bên phương tiện cơ động là  những chiếc xe đạp, ông Nhạ kể, Аội điửu trị 12 đã tổ chức 3-5 tổ cấp cứu lưu động bằng xe đạp và  chạy bộ, một đội phẫu thuật cắm chốt ở những nơi trọng điểm, nhất là  khi địch đánh bom B52. Có những đêm gió rét, các đội băng qua cầu, qua sân bay, nhà  ga, Аường 5, Аường A1 xuống từng thôn xóm, từng trận địa, từng khẩu pháo để tìm kiếm thương binh và  người bị thương ngay cả trong lúc bom đạn địch còn đang oanh tạc.

Tổ cấp cứu ngoà i việc cấp cứu trận địa còn cấp cứu tại bệnh viện như tổ chức chọn lọc, thay băng, chống choáng hồi sức, xử­ trí phẫu thuật nhiửu ca nặng và  khó, như ca của một đồng chí hạ sĩ bị tên lử­a đập và o là m vỡ thận, vỡ lách, bầm dập nhiửu đoạn ruột... đã được cứu sống và  đưa trở vử đơn vị chiến đấu.

Bình yên trong sự bao bọc của dân

à”ng Phúc nhớ lại hồi ấy toà n xã có 258 gia đình cho bộ đội, thương binh ở,thôn Vo Trung là  nơi là m việc chính của các khoa. Nhân dân đã phục vụ tận tình từ dựng doanh trại đến nhường đất, nhường nhà  phục vụ thương bệnh binh, là m kho chứa thuốc. Tiêu biểu là  gia đình ông bà  Mai Thị Lã, Ngô Thị Sáng, Kiửu Thị Thanh, ông Dương Văn Sử­.

Không chỉ nhường nhà , thậm chí người dân còn nhường cả máu cho thương binh khi có cấp cứu, gia đình nà o cũng coi các anh như con cháu trong nhà , ông Phúc kể.

Bà  Kiửu Thị Thanh và  ông Nguyễn Như Nhạ bên khu đất trước kia gia đình bà  nhường để xây dựng Ban Ngoại 2

Là  một trong số ít những người tham gia hiến đất còn sống hiện nay, bà  Kiửu Thị Thanh, thôn Thượng Аồng, xã Hội Xá, dù đã 78 tuổi vẫn nhớ rất rõ những đêm cùng người dân trong thôn ra bử sông khiêng thương binh vử lán, cứ như vậy đến tận tử mử sáng.

Bà  Thanh cho biết, cả khu vườn nhà  bà  được dà nh cho Ban Ngoại 2 dùng là m phòng khám, phòng bệnh nhân và  phòng cho nhân viên. Không chỉ nhà  bà  mà  tất cả dân trong thôn đửu nhường vườn tược, nhà  cử­a, thậm chí thu hẹp cả đình chùa đang thử cúng hay ruộng đất đang trồng trọt để dà nh đất cho bệnh viên xây dựng; có gia đình chịu đựng chật hẹp hoặc ngủ ngoà i hè, chịu đựng mùi vết thương hôi thối để dà nh nhà  rộng rãi cho thương binh ở. Nhiửu cụ và  chị đã đến bón cơm, nấu cháo, giặt giũ, thăm hửi động viên các anh.

Bệnh binh đến và  đi rất nhiửu, đến nay tuổi đã cao dù không nhớ được nhiửu nhưng bà  vẫn không thể quên chú Nhã, người miửn Nam nằm ở nhà  bà  8 tháng trời. Chú bị thương nặng lắm, biết dân nghèo chú không bao giử nhận tấm quà  mà  chỉ thi thoảng sang nhử tôi khâu giùm cái áo. Kỷ luật quân đội nghiêm lắm, các chú ấy đến nhà  dân, mượn cái ghế cũng phải xin phép. Tuy nhiên lại rất tình cảm, chú ấy hay dà nh phần thuốc tiêu chuẩn cho cháu nhà  tôi. Giử nhớ lại chỉ biết nói một câu là  chúng tôi thương các chú ấy lắm!, bà  Thanh hồi tưởng.

à”ng Nguyễn Hữu Phúc cho biết, trong 10 năm tồn tại (1965-1975), Аội điửu trị 12 đã thu dung gần 29.000 ca thương bệnh binh và  cho ra được gần 26.000 ca. Có thời điểm có ban nhận 270 thương binh trong 1 tuần, nằm rải rác gần 100 gia đình, dà i gần 2km, nên việc đi lại, ăn uống điửu trị thuốc men, hộ lý trực cũng gặp vô và n khó khăn. Nếu không có sự đồng lòng quyết tâm của toà n đội, cũng như sự cưu mang, đùm bọc của bà  con nhân dân trong là ng, đội điửu trị khó lòng hoà n thà nh nhiệm vụ.

QDND