Tổng Bí thư viết vử Đại thắng mùa Xuân 1975
Tin tức - Ngày đăng : 22:39, 24/04/2015
NHN Online - Nhân dịp kỷ niệm 40 năm giải phóng miửn Nam, thống nhất đất nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương đã có bà i viết với nhan đử: Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mử¹, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng.
Trân trọng giới thiệu toà n văn bà i viết:
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã kết thúc thắng lợi hoà n toà n cuộc kháng chiến chống Mử¹, cứu nước vĩ đại của quân và dân ta, tạo bước ngoặt trong lịch sử dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới đối với nước ta - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mử¹, cứu nước thể hiện sâu sắc sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó cũng là một sự kiện có tầm vóc quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc. Thắng lợi đó bắt nguồn từ nhiửu nhân tố, trong đó nhân tố quyết định nhất là nhử có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, phát huy cao độ nghệ thuật quân sự độc đáo Việt Nam.
Cuộc kháng chiến chống Mử¹, cứu nước của nhân dân ta (1954-1975) là sự tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Trong điửu kiện đất nước tạm thời bị chia cắt là m hai miửn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn cứ và o tình hình quốc tế, trong nước, so sánh thế và lực giữa ta và địch, nắm vững phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đử ra đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo và tổ chức thực hiện đường lối đó phù hợp với điửu kiện cụ thể và sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7/1954 đến tháng 5/1975, đó là Đảng ta đã thực hiện đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, giương cao ngọn cử độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hà nh đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miửn Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miửn Bắc, nhằm một mục tiêu chung là hoà n thà nh độc lập, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta xác định: Miửn Bắc là hậu phương lớn, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miửn Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước; miửn Nam là tiửn tuyến lớn, cách mạng miửn Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miửn Nam. Mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miửn Nam-Bắc là mối quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau, thúc đẩy và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Đó là nét độc đáo chưa có tiửn lệ trong lịch sử và là thà nh công lớn của Đảng ta; đồng thời, là nguyên nhân chủ yếu, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mử¹, cứu nước lâu dà i, gay go, quyết liệt của nhân dân ta.
Việc xác định đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo đã thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, tư duy chiến lược, tà i thao lược xuất sắc của Đảng, nhất là ở những thời điểm mang tính bước ngoặt của cuộc kháng chiến. Trước tình hình chính quyửn tay sai Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách "tố cộng", "diệt cộng", lê máy chém đi khắp miửn Nam, thẳng tay đà n áp các chiến sĩ cách mạng và quần chúng nhân dân, phong trà o cách mạng miửn Nam phát triển khó khăn, tháng 1/1959, Ban Chấp hà nh Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị lần thứ 15 (mở rộng), dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định con đường tiến lên của cách mạng miửn Nam, vạch rõ mục tiêu và phương pháp cách mạng, mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miửn, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới nhằm giải phóng miửn Nam, bảo vệ miửn Bắc, thống nhất nước nhà . Nghị quyết Trung ương 15 chỉ rõ: con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miửn Nam là khởi nghĩa già nh chính quyửn vử tay nhân dân; ngoà i ra không có con đường nà o khác. Chủ trương đúng đắn đó của Đảng đã tạo ra "là n gió mới", khí thế mới, trở thà nh động lực thúc đẩy cách mạng miửn Nam vững bước tiến lên. Mở đầu là phong trà o Đồng khởi và o cuối năm 1959, sau đó nhanh chóng phát triển thà nh cao trà o Đồng khởi trên khắp miửn Nam. Thắng lợi của phong trà o Đồng khởi đã tạo bước ngoặt, đưa cách mạng miửn Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Đây là sự mở đầu cuộc kháng chiến chống Mử¹, cứu nước rất độc đáo, sáng tạo; đồng thời, là cơ sở để Đảng ta tiếp tục phát triển chiến tranh toà n dân, toà n diện và đánh bại các chiến lược: "Chiến tranh đặc biệt" (1961-1965), "Chiến tranh cục bộ" (1965-1968), "Việt Nam hóa chiến tranh" (1969-1973) của đế quốc Mử¹, "Đánh cho Mử¹ cút", tiến tới "Đánh cho ngụy nhà o", giải phóng hoà n toà n miửn Nam, thống nhất Tổ quốc.
Cùng với việc đử ra đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, Đảng ta đã kiên định phương pháp cách mạng bạo lực tổng hợp, gồm hai lực lượng chủ yếu là lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang được tiến hà nh trong suốt cuộc kháng chiến chống Mử¹, cứu nước. Đồng thời, kiên trì thực hiện tư tưởng chiến lược tiến công. Tư tưởng đó được thực hiện không chỉ trong lúc địch "xuống thang" mà ngay cả khi chúng "leo thang" chiến tranh; và không chỉ đối với chiến tranh cách mạng ở miửn Nam, mà cả trong cuộc chiến đấu bảo vệ miửn Bắc xã hội chủ nghĩa. Chiến lược tiến công được thực hiện ở mọi thời điểm, trong mọi điửu kiện, hoà n cảnh, với phương châm: "Đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, kéo địch xuống thang từng bước, tiến tới đánh bại hoà n toà n quân địch, già nh thắng lợi quyết định của cuộc kháng chiến chống Mử¹, cứu nước". Sau khi Hiệp định Paris được ký kết (27/1/1973), quân đội viễn chinh Mử¹ buộc phải cuốn cử rút khửi miửn Nam Việt Nam (29/3/1973), cục diện chiến trường chuyển biến có lợi cho ta. Nắm vững thời cơ chiến lược được mở ra sau gần hai mươi năm chiến đấu, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 (khóa III) họp hai đợt (đợt I từ ngà y 19/6 đến ngà y 6/7/1973, đợt II từ ngà y 1/10 đến ngà y 4/10/1973) đã khẳng định và củng cố quyết tâm giải phóng miửn Nam, thống nhất Tổ quốc trong thời gian sớm nhất.
Năm 1974, quân và dân ta mở các cuộc tiến công tạo thế trên khắp các chiến trường miửn Nam, là m cho đối phương bị động, đối phó. Sau chiến thắng Thượng Đức, Đồng Xoà i, nhất là thắng lợi của chiến dịch Đường 14-Phước Long, đã tạo cơ sở để Bộ Chính trị Ban Chấp hà nh Trung ương Đảng hạ quyết tâm, thực hiện kế hoạch chiến lược giải phóng miửn Nam trong hai năm 1975-1976, đồng thời có phương án nếu thời cơ xuất hiện thì giải phóng miửn Nam ngay trong năm 1975, thậm chí trước mùa mưa năm 1975.
Trong kháng chiến chống Mử¹, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật quân sự và chiến tranh nhân dân Việt Nam đã phát triển tới đỉnh cao. Nhân tố bảo đảm cho sự phát triển không ngừng của chiến tranh nhân dân đó là lực lượng vũ trang nhân dân, gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích được xây dựng vững mạnh, bố trí rộng khắp; trong đó, các binh đoà n chủ lực giữ vai trò nòng cốt trong các chiến dịch, thực hiện tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn. Nắm vững quy luật chiến tranh, vận dụng và thực hiện sáng tạo nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, chúng ta đã từng bước chuyển hóa cục diện chiến trường theo hướng có lợi, luôn đánh địch trên thế mạnh, thế chủ động, thế bất ngử. Nét đặc sắc, độc đáo của chiến tranh nhân dân còn được thể hiện ở chỗ đã kết hợp chặt chẽ các nhân tố "thế, lực, thời, mưu" trong từng trận đánh, từng chiến dịch một cách linh hoạt, là m cho địch không thể lường được các hướng, mũi, lực lượng và sức mạnh tiến công của ta. Đó là cơ sở để Đảng ta kiên trì thực hiện phương châm chiến lược: đánh đổ từng bộ phận quân địch, già nh thắng lợi từng bước, tiến tới đánh bại hoà n toà n quân địch, già nh thắng lợi cuối cùng bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Đảng ta đặc biệt coi trọng và phát huy hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội; trong các chiến dịch. Kế thừa kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị được tiến hà nh từ khi Quân đội ta mới thà nh lập và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, công tác đảng, công tác chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mử¹, cứu nước đã được phát triển lên một bước mới, phong phú vử nhiửu mặt, thực sự là "linh hồn, mạch sống" của Quân đội ta. Căn cứ và o tình hình thực tế trên chiến trường, công tác đảng, công tác chính trị đã tập trung xây dựng quyết tâm chiến đấu, là m cho toà n quân nhất trí cao với đường lối, chủ trương của Đảng, cả vử mục tiêu chiến lược, thời cơ chiến lược, phương châm chỉ đạo chiến lược, phương thức tác chiến để già nh thắng lợi. Chủ động chỉ đạo là m tốt chức năng "đội quân công tác" ở vùng mới giải phóng, phát huy vai trò của lực lượng vũ trang địa phương, nhân dân trên địa bà n tác chiến chiến dịch. Công tác đảng, công tác chính trị đã trực tiếp định hướng tư tưởng bộ đội, khơi dậy và phát huy truyửn thống yêu nước, sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt ở miửn Bắc, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của đồng bà o miửn Nam "thà nh đồng Tổ quốc". Qua đó, tạo động lực chính trị - tinh thần to lớn cho đồng bà o và chiến sĩ cả nước trong cuộc đọ sức quyết liệt với kẻ thù xâm lược. Hoạt động công tác đảng, công tác chính trị còn góp phần xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ phương pháp tư duy quân sự cách mạng, khoa học; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người và vũ khí; giữa chính trị và quân sự; giữa dân chủ, kỷ luật và đoà n kết.
Vử công tác tổ chức, xây dựng Đảng, đã tập trung xây dựng "chi bộ 4 tốt" kết hợp với xây dựng các trung đoà n, sư đoà n vững mạnh; tăng cường rèn luyện đảng viên gắn với rèn luyện cán bộ; duy trì nghiêm các nửn nếp sinh hoạt, hoạt động của các tổ chức đảng trong điửu kiện chiến tranh; thường xuyên chăm lo bảo đảm chính sách đối với bộ đội và hậu phương quân đội. Đội ngũ cán bộ chính trị các cấp được kiện toà n, bồi dườ¡ng vử phẩm chất, năng lực nên có sự phát triển nhanh chóng và khẳng định vai trò quan trọng trong thực tiễn chiến đấu. Đặc biệt, Đảng ta hết sức chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược có đủ "tâm", đủ "tầm" và kinh nghiệm chỉ đạo tác chiến. Hình ảnh những vị tư lệnh, chính ủy các binh đoà n chủ lực mẫu mực, xông xáo, quyết đoán, toà n tâm toà n ý với sự nghiệp giải phóng miửn Nam, thống nhất Tổ quốc mãi mãi để chúng ta tôn vinh và học tập.
Hoạt động hiệu quả của công tác đảng, công tác chính trị cùng với các mặt công tác khác đã thực sự là m cho đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng đi và o thực tiễn chiến đấu của quân và dân ta, tạo nên sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn, nhất là trong những thời điểm bước ngoặt, có tính quyết định.
Đại thắng mùa Xuân 1975 là thà nh quả vĩ đại của nhân dân ta, thể hiện ý chí, khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Với đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, Đảng ta đã huy động được cao nhất sức mạnh của cả nước, bao gồm cả sức mạnh vật chất và sức mạnh chính trị - tinh thần, sức mạnh truyửn thống yêu nước nồng nà n của đất nước ngà n năm văn hiến cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mử¹ xâm lược lâu dà i, cam go, quyết liệt.
Giương cao ngọn cử độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với quan điểm đoà n kết quốc tế thủy chung, trong sáng, Đảng ta đã phát huy hiệu quả sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn và không bao giử quên sự giúp đỡ chí tình chí nghĩa của nhân dân tiến bộ trên toà n thế giới, của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhất là Liên Xô, Trung Quốc đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc ta; đặc biệt là sự đoà n kết liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước Việt Nam-Là o-Campuchia. Sự ủng hộ to lớn cả vật chất và tinh thần của cộng đồng quốc tế là một nhân tố quan trọng góp phần là m nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mử¹, cứu nước của chúng ta.
*
* *
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực bên cạnh mặt thuận lợi, vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn rất gay gắt, tiửm ẩn những nhân tố mất ổn định; chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tà i nguyên, chủ quyửn lãnh thổ, biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố và các yếu tố đe dọa an ninh phi truyửn thống có chiửu hướng gia tăng, tạo ra thách thức với nhiửu quốc gia. Ở trong nước, chúng ta đã đạt được những thà nh tựu quan trọng trên các lĩnh vực sau 30 năm đổi mới; tiửm lực mọi mặt của đất nước được tăng cường, uy tín, vị thế của nước ta ngà y cà ng được nâng cao, song cũng còn nhiửu khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch vẫn đang đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", "phi chính trị hóa" Quân đội. Tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyửn biển, đảo còn lâu dà i, không ít khó khăn. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của toà n Đảng, toà n dân và toà n quân ta rất nặng nử, đan xen cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức. Để hoà n thà nh thắng lợi nhiệm vụ chiến lược nà y, chúng ta phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điửu hà nh của Nhà nước, phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngà nh, các lực lượng, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt.
Năm nay, chúng ta kỷ niệm 40 năm Ngà y giải phóng hoà n toà n miửn Nam, thống nhất đất nước đúng và o thời điểm Đảng ta tiến hà nh đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XII của Đảng. Đây là một sự kiện trọng đại đối với Đảng ta, dân tộc ta; đồng thời, cũng là dịp để Đảng ta nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, phát huy trí tuệ của toà n Đảng, hoà n thiện đường lối đổi mới, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.
Bà i học thà nh công vử sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mử¹, cứu nước cần phải được tiếp tục kế thừa, phát huy trong tình hình mới. Đó là bà i học kiên định đường lối, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liửn với chủ nghĩa xã hội; kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững bản chất giai cấp công nhân và củng cố vững chắc nửn tảng tư tưởng của Đảng. Trên cơ sở đó, xác định đường lối, chủ trương, giải pháp lãnh đạo đúng đắn, sát yêu cầu phát triển của cách mạng; tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tìm ra quy luật khách quan bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng mang lại hiệu lực, hiệu quả trên thực tế.
Để xây dựng Đảng ta ngà y cà ng trong sạch, vững mạnh, thực sự "là đạo đức, là văn minh" như tâm nguyện của Bác Hồ, toà n Đảng phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI gắn với việc học tập và là m theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và những biểu hiện suy thoái vử tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở phải là m tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng; cán bộ của Đảng phải thực sự là công bộc của dân, quan tâm đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người dân; khắc phục mọi biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng, "lợi ích nhóm", mất đoà n kết nội bộ v.v... Đồng thời, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, tích cực đấu tranh là m thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Quân đội nhân dân với vai trò là một lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thà nh, tin cậy của Đảng, Tổ quốc, Nhân dân, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng theo hướng "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại". Quân đội cần chủ động nắm chắc tình hình, dự báo chính xác xu hướng phát triển, nhất là những vấn đử liên quan đến quốc phòng, an ninh của đất nước; trên cơ sở đó, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng công an, đối ngoại để tham mưu, đử xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chiến lược bảo vệ Tổ quốc và có đối sách, xử lý đúng đắn các tình huống, không để bị động, bất ngử, góp phần tạo môi trường hòa bình ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Quân đội ta là quân đội cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phải tiếp tục hoà n thà nh tốt vai trò là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động, sản xuất, xứng đáng với niửm tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, tô thắm thêm truyửn thống phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ".
Để là m được điửu đó, phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp vử mọi mặt của Đảng đối với Quân đội; tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh cả vử chính trị, tư tưởng và tổ chức, có năng lực lãnh đạo toà n diện, sức chiến đấu cao; kiên quyết đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn "phi chính trị hóa "Quân đội của các thế lực thù địch. Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng cần nghiên cứu, tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 8 khoá XI vử Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; trong đó trọng tâm là xây dựng nửn quốc phòng toà n dân, xây dựng thế trận quốc phòng toà n dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ và các phương án, kế hoạch phòng thủ đất nước. Thường xuyên chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh vử chính trị, tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong toà n quân và lực lượng dân quân tự vệ.
Lịch sử 85 năm ra đời và phát triển của Đảng ta cho thấy, cà ng trong những thời điểm khó khăn, phức tạp thì bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức, năng lực lãnh đạo của Đảng cà ng được khẳng định. Chúng ta tin tưởng rằng, bà i học thà nh công vử sự lãnh đạo của Đảng trong Đại thắng mùa Xuân 1975, cũng như toà n bộ sự nghiệp chống Mử¹, cứu nước sẽ tiếp tục được phát huy trong tình hình mới./.