Độc đáo làng Việt cổ Chảy Văn Minh
Người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Ngày đăng : 13:56, 15/05/2017
Đình cổ làng Chảy
Làng Do Lễ ban đầu có ngôi đình cổ (ở khu Quán đá) thờ Thành hoàng làng Đoàn Thượng Đông Hải Đại Vương, sau tách ra: Làng Chanh Thôn vai “anh cả” do giữ bát hương, làng Nho Tống vai “anh hai” giữ bộ long ngai, làng Văn Minh vai “em út” giữ các đồ khí tự. Khi vua Quang Trung tiến quân ra Bắc đại phá quân Thanh, có dừng quân nơi đây để chỉnh đốn binh mã, tiếp tục chảy quân và tiến đánh thành Thăng Long, từ đó các làng có tên gọi là làng Chảy. Làng Chảy trên bến dưới thuyền, hàng ngày có phiên chợ Chảy buôn bán thương mại tấp nập, dịch vụ trung chuyển từ xứ Đoài sang xứ Đông… Phong cảnh, tập quán thuần hậu của làng quê thể hiện qua vần thơ “Hỡi cô thắt dải lưng xanh/ Có về làng Chảy với anh thì về/ Làng Chảy có quán Bồ Đề/ Có sông tắm mát có nghề trồng dưa”.
Theo thần phả: Đoàn Thượng “Đông Hải Đại Vương Thượng Đẳng tối linh Thần tích” thờ ở miếu Văn Minh, sinh ngày 12/8 năm Trinh Phù thứ 6, đời Lý Cao Tông vào giữa tiết Thu năm Tân Sửu. Thân mẫu Lý Thị mơ thấy mình bắt được Giao Long bên bờ Đông Hải, thân phụ Đoàn Trung chọn ngay chữ Thượng đặt tên con. Sau 4 năm tang cha, triều đình mở khoa thi Tam Giáo, Ngài ứng thí đỗ Mậu Tài và được nhà vua chọn làm quan Trung Thị. Nhờ võ công xuất chúng, kiến thức rộng sâu, uy tín vang xa, hoàng gia tin tưởng, thuộc cấp tôn phò, đồng liêu kính phục… Năm Mậu Tý 1288, Thái sư Trần Thủ Độ, ngầm giao ước cùng Nguyễn Nộn mưu hại Hồng Châu, ngài “Trung nghĩa cả tin, vô tình y hẹn, một mình, một ngựa đến xứ Đồng Đao”, nào ngờ “Mắc phải mưu gian, sa vào bẫy độc; ba bề, bốn mặt, phục sẵn tinh binh; mé Thiên Đức quân Nộn tràn sang; từ Văn Giang tướng Trần ập đến; trong rừng gươm giáo, hữu đột tả xung; một lưỡi kiến oan, đầu lìa khỏi cổ”. Nhưng: Ngài lắp trả đầu, lấy dải khăn đỏ quàng buộc lại; áo bào đẫm máu, quay chiến mã chạy về đông; đến đầu làng An Nhân, bỗng thấy ông lão áo đen khoanh tay kính cẩn “Chỗ đất kia là huyệt, dành cho Tướng quân Trung liệt, Thượng đế chọn rồi”. Ngài xuống ngựa, đầu gối lên gươm rồi hóa. Mối đùn thành mộ, linh ứng động đến trời. Mười tám trận hùng uy, võ công lừng lẫy. Thương tiếc và nhớ ơn ông, cả ba làng Chảy lập miếu, đình thờ Ngài. Khắp Hồng Châu làng xã, bao Vương Đế hậu triều, bấy đạo chỉ sắc phong Thượng đẳng Tối Linh Thần Đông Hải “Anh hùng trung tín, dẫu chết vẫn như còn/ Đông Hải Đại Vương, Danh Thần thiêng vạn thế”. Đức Thánh Đoàn Thượng hóa ngày 7/11.
Quán Bồ Đề làng Chảy
Bản thần tích, thấn sắc “Đông Hải Đại Vương Nguyễn Phục” thờ ở đình có ghi: “Gia đình chồng là Nguyễn Đôn, vợ là Lê Thị Bảo. Vốn người tu nhân tích đức, hay cứu giúp người nghèo túng, ba sinh hương lửa, một gối phong lưu, trong nhà rất là dư dật. Ngoại tứ tuần mà vẫn chưa hề sinh nở, một hôm nghe nói ở huyện Tiên Du (Từ Sơn, Kinh Bắc) có chùa Phật Tích rất linh ứng. Vợ chồng bèn sắm sanh tiền nhang lễ vật, tới chùa thắp nhang khấn cầu xin chư Phật đại đức từ bi ban phúc cho vợ chồng. Sau đó không lâu bà Bảo có thai, vào rằm tháng 8 năm Giáp Dần 1434 sinh hạ một trai muôn phần khác hẳn người thường, bèn đặt là Phục Công. Năm Phục Công 20 tuổi, năm Thái Hòa thứ 10 (1453), thi khoa Quý Dậu, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ, làm quan tới chức Hàm Lâm viện đông các đại học sĩ. Ông là người văn võ song toàn, học cao biết rộng, được vua Lê Nhân Tông tin yêu và ủy quyền cho việc nuôi dạy Lê Thánh Tông lúc nhỏ. Khi Lê Thánh Tông lên ngôi, ông làm giám thí và được thăng làm Hàn lâm viện Tham trưởng, ba lần đi sứ Trung Quốc lập được nhiều công trạng. Tháng 2 năm 1470, làm đến chức Đô chỉ huy sứ Tẩm y vệ. Khi Lê Thánh Tông đem 26 vạn quân tiễu phạt Chiêm Thành, Phục Công được giao trọng trách lo việc quân lương với chức Chuyển vận sứ tướng quân. Khi đoàn thuyền trở lương vào đến cửa biển Tư Dung (Tư Hiền bây giờ) thì gặp bão lớn, ông cho quay thuyền vào cảng, các quan tùy tùng đều nhắc nói “quân lệnh rất nghiêm”, ông trả lời rằng: “Ta thà liều tấm thân nhỏ mọn của ta dưới ba thước gươm của triều đình còn hơn là để mấy nghìn quân lính làm mồi cho cá”. Sau khi gió tạnh, thuyền đến ngự doanh lỡ hẹn, ông xin chịu quân pháp. Bọn cung nhân và cận thần nhân dèm với vua xin giết đi… bấy giờ là ngày 15 tháng 7. Đến lúc, vua sực giác ngộ ra liền tuyên chiếu tha tội cho ông, thì ông đã bị xử tử rồi. Sau khi chết uy phong lẫm liệt, thường hiển linh, nên địa phương lập đền thờ cúng. Vua biết oan, phong Phục Công (Nguyễn Phục) hiệu Tùng Giang Tiên sinh là Thượng Đẳng Phúc Thần Đông Hải Đại Vương.
Làng Chảy có tục kiêng tên húy là “Thượng” và “Phục”, lúc đọc tế, nói trong ngày lễ cũng phải kiêng, đặc biệt kiêng “chít khăn màu đỏ”, đi vào đình miếu phải bỏ mũ nón, dân không được làm nhà gần đình miếu và có nóc nhà cao hơn. Làng tổ chức lễ hội chính ngày 13/8 hàng năm để tưởng nhớ công đức của nhị vị Thành hoàng đã có công khai sinh, lập địa, lập làng, giữ nước. Đặc biệt làng còn lưu các địa danh khi vua Quang Trung hành quân qua như: Vườn ông Bống, khu Tờ Chỉ (địa danh phất cờ tập chung của đại quân), cánh đồng Cổ Ngựa (nơi buộc ngựa chỉnh đốn binh mã), các xứ đồng (Đường Ngang, Đường Xít, Đường Râm, Đường Cầm, Xà Leo, Xà Bẫm, Gốc Đề, Đồng Sau, Đồng Cửa, Đồng Thuyền, Đồng Trung). Lễ nghênh giá nhị vị Thành hoàng từ miếu rước về đình, làng tổ chức hành lễ, dâng cúng: Hương, trà, phẩm oản, mâm xôi, trầu cau, rượu, gà tươi, thủ lợn luộc, bánh dày, gạo mới, cùng các thứ hoa quả; tổ chức ca hát, văn nghệ, hát ca mới, hát chèo, hát văn, ca trù, hát trống quân, các trò vui chơi dân gian (vật lầu, đánh cờ, đấu gậy, kéo co, bắt vịt, thể thao) có thưởng. “Chiêng Trào, trống Chảy, mõ Cổ Châu” xưa là sự hội tụ liên vùng (3 làng Chảy có 3 bộ trống cái to thường vào ngày hội làng (11+12+13/8 âm lịch) ngân vang cả vùng nghe thấy và Miếu của 3 làng Chảy đều thờ Đoàn Thượng – Điều đó minh chứng miền đất nơi đây khai sinh lập địa từ thời Tiền Lê).
Làng Chảy có hệ thống giá trị văn hóa lịch sử lâu đời mà các bậc tiền nhân để lại: Đình, miếu, chùa Lưu Ly tự, quán đá Bồ Đề (quán chính giác, giác ngộ, theo thuyết Tam giáo đồng nguyên), đền Trung Lân, đền Đề Thám, nhà thờ Đạo Thiên Chúa, 5 giếng cổ, khu văn chỉ, bản thần tích thần sắc, 13 đạo sắc phong, bản hương ước cổ và nhiều nhà thờ họ kiến trúc cổ trên 100 năm. Làng có 7 xóm cổ (xóm Thái Học hay xóm Chùa, xóm Chín Nghéo hay xóm có 9 khúc đầu rồng chầu về đình, xóm Đền Trung Lân, xóm Giếng, xóm Đạo, xóm Trại và xóm Đề Thám). Đình làng Chảy hiện còn lưu giữ: Thần tích thần sắc, 12 đạo sắc phong, 2 quả chuông, 3 bộ đỉnh, 1 ấm, 2 chóe, 6 bát hương (3 sứ, 3 đồng), 3 hoành phi, bộ ngai (áo, mũ, hia), 2 bộ kiệu, biển, bát bửu, chùy, đồ khí tự cổ. Chùa Lưu Ly tự còn lưu bức hoành phi đắp cốt giấy bản thổ cổ có chữ đại tự “Văn Minh Lạc Thổ” nghĩa là: Vùng đất văn học, vùng đất vui, trù phú, nơi chốn tổ, an lành, thanh tịnh, giàu có, điền viên, mỹ tục khả phong, khoa bảng từ ngàn xưa – Thật là một làng Việt cổ độc đáo, tiêu biểu vùng châu thổ sông Hồng hiện nay…